TÁI SINH

0
818

Tu là cội phúc, tình là dây oan”. (Nguyễn Du)

Hồn ta quay về dĩ vãng,

Như khách giang hồ mộng cố hương.

Lòng ta khép lại giam kỷ niệm,

Như một nấm mồ chôn nhớ thương!!!

Cũng như lệ thường, bốn giờ khuya hôm đó, vị Sư nữ trụ trì chùa Phước Huệ đã thức dậy công phu. Tuy tuổi quá ngũ tuần, song trông Sư nữ còn tráng kiện lắm. Trời đông tháng rét mà Sư nữ chỉ mặc chiếc áo tràng mỏng. Đương lúc lui cui cúng nước thắp nhang, đoạn Sư nữ gióng dứt hồi chuông rồi quỳ giở cuốn Kinh Nhựt Tụng: “Nam mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật… Nam mô…”. Đêm vắng tiếng mõ lốc cốc điểm vào giọng Sư nữ ngân nga, âm ba gợn thoảng trong không gian, chớp loè trên bàn Phật, tháp đèn lưu ly dầu hao tim lụn cháy rè rè….

Mái ngoài, ánh bình minh chiếu qua khe cửa, in trên nền đất mờ sẫm đôi vệt sáng long lanh. Hành lễ xong, Sư nữ vẫn ngồi lần chuỗi Bồ-đề, lim dim nhập định. Thình lình Sư nữ nghe tiếng con nít khóc trước sân chùa, ban đầu Sư nữ làm ngơ bỏ qua, nhưng giây lát sau tiếng khóc, khóc càng già rộn rã thúc giục: “Tu oa! Tu oa!” Tấm lòng từ bi bỗng xót xa thắc mắc, Sư nữ bèn xô cửa ra xem. Quả nhiên, Sư nữ thấy một vật gì lù lù dựa góc tường hoa dưới làn sương sớm. Sanh nghi, Sư nữ xôm tới cúi xuống nhìn! Một đứa nhỏ còn đỏ lắm lói ngo ngoe trong cái bọc bằng mền xám cũ rích cuốn tròn. Sư nữ nghĩ: “Con nhà ai chửa non đẻ lạnh rồi đem vứt nơi đây?”

Tội nghiệp nó khát sữa bú tay, nút không ngớt miệng! Sư nữ khẽ vuốt ve, nó liền ngó sững Sư nữ rồi ré lớn.

“Oäi ! Oäi !” Sư nữ vừa ru vừa dỗ: “Phải chăng nhà ngươi là một Bồ-tát tái sanh? Phải chăng vì quả kiếp nhân duyên nên nhà ngươi tìm đến ta mà nhập môn cầu đạo?”

Lạ chưa ! Đứa nhỏ như hiểu, vùng quơ tay đòi ẳm và nín khe. Sư nữ bối rối phân vân khó mà xử trí, nghĩ mình bổn phận tu hành lánh vòng tục lụy, dây thân ái đều cắt đứt lâu rồi, đến họ hàng ruột thịt kia còn chẳng phép bận bịu, huống hồ với mụn con hoang này, giọt máu rơi của thiên hạ. Vả lại, núp bóng già lam, biểu mình trường chay khổ hạnh thì được, chớ công việc ở vú coi em, nhai cơm mớm sữa mình đâu từng. Mà có chắc nó là con hoang không hay chỉ là đứa trẻ bị mất cắp? Nuôi nó đây phỏng nó có mạnh giỏi ăn chơi lớn khôn thành đạt? Mà chứa nó đây mình có liên can tội hệ gì chăng? Ngặt giao nó cho ai bây giờ? Sư nữ vói ôm nó lên, cằn nhằn lẩm bẩm: “Ai mà tệ thật! Muốn khuấy phá, thiếu chi chỗ khác, hà tất phải gieo oan gây hoạ ô uế cho nhà chùa thế này!”

Có lẽ, tại thuở nay Sư nữ không quen bồng em nên để nó chòi đạp cách nào làm tuột hết chăn tả, trong ấy lại lòi ra một bức thơ chữ Hán đề gởi cho Sư nữ. Ngạc nhiên, Sư nữ cầm đọc:

Khải Định tam niên trọng thu

“Sư cụ Chùa Phước Huệ nhã giám”

“Bạch Sư cụ!

“Tiểu sinh hằng ngưỡng mộ đại danh, những mong sẽ được hân hạnh làm một tín đồ hầu dưới thính đường mà lãnh lời chỉ giáo. Hầu vì mình mắc án vua, chí toan việc nước chưa dễ xuất đầu lộ diện, nên cam lẩn lút bước giang hồ, cùng với bạn tào khang sông Ngô bể Sở bấy nhiêu lâu, gặp ai cũng kín miệng gìn lời, ở đâu cũng trá hình giả dạng.

Đành đã bút nghiên mà kiếm mã,

Thương ôi kim chỉ cũng phong trần.

Thành thử luống dầm mưa dãi nắng, nghèo đói ốm đau, thảm cho thân nhược chất liễu bồ, không được tôi bảo toàn khi sanh nở.

Đương trong nôi mà bỗng dưng mất mẹ, mảnh hài nhi kia do huyết vợ tinh chồng phối hợp, đáng lẽ tôi phải coi là dấu tích thiêng liêng, mà ra công gà trống nuôi con ngỏ mai chiều nó nối nghiệp cơ cừu, chẳng kẻo phụ lòng người chín suối; chớ nỡ nào từ bỏ nó, loài cầm thú cũng không quên cốt nhục thâm tình nữa là tôi. Nhưng sở dĩ tôi đành nhẫn tâm, chẳng qua tại còn duyên cớ khác.

Bạch Sư nữ ! Phật dạy có luân hồi quả báo hoặc chăng đứa trẻ này là một tang chứng hiển nhiên chi đó! Tôi tin rằng nó thiệt con ranh con lộn đầu thai lên, bởi lẽ nó ra đời có những đặc điểm dị thường in hệt mấy lần trước. Quả nó giống nó xưa như đúc; từ tiếng khóc, nụ cười, chơn mày, khoé miệng, cho tới cái bớt son hình chử sơn giữa lòng bàn tay tả, nhứt nhứt đều trở lại không sai.

Số là cách đây năm năm, vợ chồng chúng tôi muộn màng được chút con trai, vui mừng chi xiết! Phần thấy thằng nhỏ khôi ngô tuấn tú, chúng tôi ước mơ cho nó nhiều sự nghiệp anh hùng “Còn tre măng mọc, còn chồi lên cây”. Chỗ mình hoài bảo bình sanh âu sẽ phó thác cho trẻ, té ra đâu độ sáu tháng thì nó chết, lạ là lúc lâm chung hấp hối, chúng tôi nghe nó bập bẹ ú ớ tợ hồ trối gọi tên ai! Cho là nó mắc bệnh tà nhưng chạy sao cho kịp.

Rồi thảng mảng tảo tần chật vật, thời gian chúng tôi xao lãng việc ấy đi. Chẳng dè hai năm sau, lần thứ nhì tiện nội nhè sanh nó nữa, một hiện về tự kỷ ám thị hay là quỷ thai của vợ tôi! Cũng lựa đúng tháng đó ngày đó mà ra đời, nó cũng y nguyên hẳn hòi với hết thảy hình tích cũ. Chúng tôi dễ gì nao núng, trái lại còn tưởng là bậc thiên thần, thiên tướng giáng phàm, đặng phò nguy trị loạn, định quốc an bang, vị chi sự nuôi nấng chăm nom rất tận tình chu đáo. Núi chùa nào linh ứng tôi cũng đem con ký bán, hễ nó vang mình sốt mẩy thì khẩn cầu lễ bái, ăn chay nằm đất nguyện cho con, vậy mà chuộc mạng nó không khỏi.

Cơ khổ nó chỉ đau xoàng như kỳ trước, mà tính ra nó chỉ sống có vừa giáp năm thôi; có điều chừng ấy tuổi sao nó lại biết nói. Vâng ! Chúng tôi rình bắt đặng nó nói rõ ràng leo lẻo, khi nó gần tắt hơi, yêu ma gì nhập vô nó, khiến nó cứ lặp đi lặp lại câu này, nhắc tới tôi còn rởn tóc gáy: “Tôi đây! Ngọc Oanh!”

Thế ru nó đã tiền thân tiền kiếp, song hãy còn vương mang oan khiên nghiệp báo, nên linh hồn chưa siêu thoát tiêu diêu. Hèn chi nó chẳng trở xuống trần hai phen mượn xác vào nhà chúng tôi mà không nuôi được, chắc đâu nó chẳng hòng về nữa báo hại vợ tôi “tò vò nuôi nhện” chớ nào phải con! Gia dĩ vợ tôi non gan yếu vía, biết chịu có kham, nếu quái trạng kia còn tái diễn.

Muốn cho dứt các hậu hoạn, tôi thỉnh nhiều vị thiền sư, đạo sĩ ếm đối dùm. Chẳng những vậy, chúng tôi còn cử gần gũi nhau ngót một năm chẵn. Ấy mà rốt rồi cũng vô hiệu, hình như bao giờ nó cũng hờm sẵn để chờ cơ hội trùng lai. Thương thay chuyến này lâm bồn phải banh da xé thịt cho nó lần cuối cùng để giã từ dương thế; ngòi mộng nứt lên thì nát liền hạt giống, nó đã tranh sống với mẹ nó thì tội tày trời, tôi chịu đạo nghĩa gì mà nhận nó là con! Vả lại như tôi bơ vơ lữ thứ giữa đường, ca khúc cổ bồn lẻo đẻo trùng sơn, đôi bữa ngậm hờn tinh vệ, nên đứa trẻ “xấu háy”thà gởi lại đặng nó quy y thọ ký, nhờ Sư nữ thế độ cho, chỉ bảo mở mang, may ra ngày sau nó đoạn căn tuyệt dục, xa chốn mê đồ, không nữa thì nơi đường phú quý lợi danh, nó cũng đủ tài sức mà kiến công lập nghiệp; chẳng hơn na nó theo, trứng nước mỏng manh, chịu số phận bèo trôi sóng vỗ, lỡ lúc đẹn sài cảm mạo, cậy ai săn sóc đỡ thay.

Thôi không sanh có dưỡng, trông Sư nữ mở lượng hải hà, mất hiếu còn trung, nhắn trẻ chớ tìm cội rễ.”

“Trăm lạy vĩnh biệt, đôi lời thác cô”.

Từ đó về sau, ai có dịp đi ngang chùa cũng đều nghe tiếng Sư nữ ở trong “Ầu ơ . . .ví dầu” hát đưa em, láng giềng tọc mạch dòm nom, Sư nữ bảo là mới xí được bé trai ! Họ xầm xì Sư nữ mắc nợ thằng nhỏ đó, chớ không tội tình gì chẳng cho phức người ta nuôi, để chi mà hằng ngày Sư nữ phải đến năn nỉ từng nhà nào có con đặng gởi nó bú sữa. Đinh ninh rằng thiên cơ bất khả lậu, nên khi khai báo với làng sở tại, Sư nữ tuyệt nhiên dấu kín chuyện bức thư. Và thể theo cái bớt son giữa lòng bàn tay, Sư nữ đặt pháp danh là Sơn Huệ.

Mới hay Đức Phật hiếu sinh phù trì che chở cho em Sơn Huệ còn tấm bé búp măng, phải chịu rời nôi thiếu sữa, thế mà vẫn sởn sơ cứng cáp thiệt không ngờ. Hoặc giả những chằng tinh la-sát gì cũng trọng Bụt nể Sư, nên chẳng dám bén mảng; lụi hụi rồi em biết lật biết trườn, làm mưa, làm xấu, mụ bà khéo dạy em có duyên có nết rất đáng yêu, cửa thiền tu vốn chỗ trang nghiêm, vậy mà nhiều khi Sư nữ cũng khó nhịn cười trước bộ tịch nô đùa của trẻ thơ vô tội. Lần lần thấy nó đổi khác, ưa trầm tư lặng lẽ, hơn là nghịch ngợm lanh chanh, lúc nào gương mặt cũng đượm vẻ buồn, mà hễ có ai hôn nựng tưng tiu, thì nó lại núng nẩy vùng vằng, không tỏ ý thân mật; đồ chơi kẹo bánh Sư nữ mua cho, nó chỉ cầm qua loa rồi bỏ đấy.

Vừa đi lẫm đẫm được, nó đã mon men ra ngoài sân, hai tay nó chập chờn như đón tiếp một người khách xa xăm, cặp mắt nó dáo dác như kiếm tìm một chân trời mộng; câu nói vỡ lòng dường hưởng ứng theo tiếng gọi huyền vi bí ẩn: “Tôi đây! Ngọc Oanh!”

Mãi cho tới lớn, thỉnh thoảng những lúc ngồi suông nghĩ quẩn, bất giác trong miệng nó lầm thầm mớ nhảm câu ấy luôn. Tự nó cũng giựt mình không hiểu “Ngọc Oanh” của nó là ai? Ở đâu kìa? Có quan hệ gì với nó nên nó kêu tên đặng mà ơn đền nghĩa trả, hay là đặng đòi lại mạng xưa duyên trước . . . ?

* * * * * * * * * * *

Thoi đưa thắm thoát, đến tuổi em Sơn Huệ lên mười. Sư nữ khởi sự tập cho em gõ mõ gióng chuông, thức khuya dậy sớm; dẫu còn thơ ấu, chú tiểu ta thiên tư tài mạo tót vời, chẳng những am tường kinh luật mà còn làu thông thi phú văn chương, tao nhân mặc khách đến viếng chùa thăm Sư nữ cầu vui khảo hạch em về ngôn ngữ Thánh Hiền, đều được em đối đáp trôi chảy, họ phải khen tặng em là thần đồng. Ngặt cứ như “vọng sanh tương tục” Sư nữ ngại cho em còn nhiều oan trái, sợ tu không trọn, nhưng tới đâu hay đó, Sư nữ vẫn cố uốn nắn dắt dìu, làm tròn trách nhiệm. Sư nữ đã vì bức thơ mà đảm nhận, người để chúc thư bấy chừ biệt tích, trẻ nương am tự cam phận mồ côi, lắm lúc tình cờ em hỏi thăm gốc gác cha mẹ, Sư nữ cảm tưởng mình không khác “chị vợ chưa cưới đứng goá nuôi con chồng”, đành là anh chồng nặc danh trong thí dụ đó thôi, song đòi cơn trông trẻ rồi phưởng phất đến người, Sư nữ cũng xẻn lẻn thẹn thùng như vừa phạm một giới cấm….

Sẵn có trường dưới tỉnh, Sư nữ đưa trẻ thọ giáo, ngày hai bữa sớm tối đi về, học trò trang lứa hay trêu chọc, khuấy rầy, nó vẫn khéo chìu lụy nhún nhường, biết thân thủ phận. Lâu rồi thầy thương bạn mến, em giữ mực siêng năng chăm chỉ, không cậy mình sáng láng mà dễ duôi, nên em tấn phát thiệt mau, năm nào cũng đứng hạng nhất nhì trong lớp. Mười ba tuổi em đổ bằng sơ học, chớ chi em sanh nhằm nhà khá giả, ắt nó đã vô luôn trường lớn ngồi ban thành chung; đằng nầy Sư nữ thì già em chẳng nỡ lìa xa, phần lại chùa cũng nghèo, đâu có thể chu cấp bạc tiền, áo cơm sách vở, huống em đã quen nâu sòng chay lạt, nay nếu tính đeo đuổi học nữa thì sao khỏi cải trang ngã mặn, bỏ đạo theo đời. Thế nên em đành tạm gát bút nghiên, lo kinh kệ, tuy vậy hễ thừa lúc nhàn rỗi việc, em lén mượn văn bài của anh em đem về chép lại để lần mò học lóm thêm. Thế mà nhiệm mầu thay ! Em thuộc hết giáo khoa trung đẳng, mười bảy tuổi em ra thi tốt nghiệp ai cũng lấy làm lạ mà thấy lần đầu tiên một chú tiểu kiêm hai thứ chữ ứng cử khoa tràng, mà cũng lần đầu tiên trong phái Tăng đồ ở Trung kỳ cái tên Sơn Huệ được hoan nghinh chú trọng. Vừa gặp phong trào tuyên dương Phật giáo, em bèn xin ứng mộ theo đạo binh cứu thế, làm tên lính từ bi, bác ái trên con đường tự giác, giác tha. Sư nữ cũng tán thành cho phép em ra Bắc vào Nam, học hỏi chư Tăng Đại đức, chẳng bao lâu em bác lãm quần kinh, quán thông giáo lý. Đến năm hai mươi mốt tuổi em thọ “Cụ túc giới” tại chùa Diệu Đế, được Ngài Hoà thượng chứng minh làm thủ chúng Sa-di.

Từ đó, khi trong báo chí, khi trên giảng đường, phàm có bàn luận về những vấn đề hoằng pháp lợi sanh, Thầy Sơn Huệ luôn tỏ ra là bậc quảng kiến đa văn, túc căn thâm hậu. Song riêng thầy cũng tự biết mình trần duyên chưa dứt, mấy tiếng “Tôi đây ! Ngọc Oanh!” há chẳng phải là một tà tâm vọng niệm nó cứ vương vấn quyến rũ kẻ tu trì ! Há chẳng phải là một thề nguyền hứa hẹn gì xưa, mà kiếp lạc loài này mình mãi băn khoăn nhớ tưởng? Thầy bèn chí nguyện sám hối, nhưng không sao xua đuổi được câu oan gia tội báo kia; mặc dù, trong bữa ăn giấc ngủ hay đang giờ tĩnh tọa tham thiền, nó vẫn trong tiềm thức ứng thinh lên đột ngột, tự do, như đặng nhắc nhở Thầy bao nhiêu hình ảnh lờ mờ trong quá khứ! Lại nữa, cái bớt son càng ngày càng đỏ thắm, một dấu vết lưu lại bất hủ để tố giác căn do nguyên thuỷ Thầy với thế gian đấy ư?

Bỗng đâu Sư nữ đau nặng, trước khi tịch diệt, gọi Thầy đến gần và trao lại bức chúc thơ.

Không rõ Thầy suy nghĩ thế nào mà xong cuộc di quan nhập tháp cho Sư nữ, Thầy đóng cửa chùa, rồi đeo bầu quảy líp ra đi … hạc lãnh mây bay, tuyệt vô âm tín.

Người ta trong vòng sanh tử triền miên không phải mỗi ai cũng đều đặng cái duyên may mà tỏ ngộ chỗ nghiệp chướng vô minh, tiền căn hậu quả. Như Thầy Sơn Huệ đây, vì còn bịn rịn cõi trần nên còn mắc báo thân chuyển kiếp. Hiện đứng trước không gian và thời gian lạ lùng bỡ ngỡ, khắp lục đạo luân hồi, tam thiên thế giới, món nợ lòng Thầy biết trả về đâu? Vả lại, từ ngày Thầy sanh ra tới nay, ngót đã hăm mấy tuổi đầu, vật đổi sao dời kể xiết bao, cảnh cũ người xưa dễ chi tìm gặp lại? Mà có gặp nhau chăng nữa, e thay cũng hững hờ bèo nước, bụi hồng lầm lạc, ai nhìn được ai? Cuộc đời mình lưu chuyển dở dang, Thầy nghiệm ra nó có thỉ không chung, dây dưa bất tận, không lẽ rồi đây trên sân khấu Ta-bà đóng vai trò tứ khổ, cứ thoạt chốc mà lớn, già, đau, chết…, mình luống chịu vần xoay, quanh quẩn in như con hình tự động, ở chiếc đèn xẻ rãnh đêm Rằm trung thu.

“ Nhứt thiết hữu vi pháp/ Như mộng, huyễn, bào, ảnh/ Như lộ diệc như điển / Ưng tác như thị quán”. (Kinh Kim Cương)

Chi bằng bỏ hết mê chấp, phủi sạch trả vay, vượt bể trầm luân, nhắm bờ giải thoát. Ví ngày trời được rộng, hẳn mình thêm lấy công chuộc tội hộ trì Tam bảo phổ độ chúng sanh chớ sao.

*   * * * *   *   *   *   *   *   *

Giã từ chùa, Sơn Huệ ra đi, Thầy dốc cải danh diệt tánh, ôm theo mình đoạn lịch sử nhiệm mật, huyền vi. Rồi kiếm một nơi hoang vu, hẻo lánh ẩn dật về sau, ngỏ hầu tiện bề tu tập. Đôi khi mưa gió lộ đồ, Thầy chẳng quản trì bình khất thực, đối với kẻ nghèo nàn vất vả, Thầy lại có cảm tình riêng. Hột cơm xin của mấy nhà vách đất lều tranh, Thầy coi nó quý hơn miếng cao lương chốn lầu son gác tía. Lê gót phiêu linh Thầy trải qua nhiều am thất, tuy tới đâu cũng được ân cần khoản đãi, nhưng chưa chỗ nào vừa ý cho Thầy trú chân. Trong lòng Thầy thường man mác nỗi u buồn, một niềm hoài vọng khắc khoải bông lông mà tiếng mõ câu kinh không đủ sức phôi pha khoả lấp. Những lúc ấy, Thầy dường quên hạnh Tăng bần, khổ sai, định hết làm khách bàng quan, xem sự thế cạnh lò, sống bên ngoài tưng bừng ấm áp, Thầy muốn đem hơ sưởi mảnh hồn mình quạnh quẻ cô đơn.

Cả tháng tròn, Thầy như chiếc thuyền trôi, đâu đó một bến bờ vô danh ngấm ngầm hấp dẫn…

Màn đêm phủ xuống, ngọn đèn dầu lập loè trong xóm giống chừng như những con mắt thân thuộc lưng tròng tựa cửa ngóng ai về! Thầy giục bước nôn nao hồi hộp… Đêm nay thất tịch sương nặng, sao mờ, nhà nhà hầu yên giấc, duy có Thầy còn đi trên nẻo vắng, cô thân chích ảnh, thui thủi canh tàn! Thầy lầm lũi đi dò lần khúc gốc quanh co, thôi miên bởi ngọn đèn xa dội lưng đồi mà mỗi nhấp nhoáng là một hiệu triệu uy nghi khẩn cấp. Quái lạ! Thầy nghe vô cùng phấn khởi và nhận ra đường đất mài mại hơi quen. Mạo hiểm Thầy cứ nhắm bóng sáng mà men tới. Lên khỏi dốc, một toà dinh thự nguy nga chắn ngay trước mặt mà không còn ngả khác đặng Thầy rẻ theo, Thầy tấn thối lưỡng nan, trời lại bắt đầu vần vũ mây kéo mịt mù, gió lùa vùn vụt, tư bề sấm dậy chớp giăng. Thầy phải tạm núp gần cửa tam quan mà chịu trận.

Phút chốc, mưa chan tầm tã, Thầy lạnh quá run lập cập, quần áo ướt loi ngoi, túng thế Thầy bỏ chạy vô sân, leo lên mấy bậc cấp trên, tính đụt dưới hàng ba chờ mưa tạnh.

Bên trong ánh đèn dờn dợt xuyên qua lớp cửa sổ lộng kính khép he hé, thập thò rọi liếm hiên ngoài. Người nhà hãy còn thức to nhỏ, rù rì, một bản “kèn hát máy” lảnh lót, du dương. Gợi tính hiếu kỳ Thầy xích lại nép sát tường vôi rồi mới lén nghiêng tai ghé mắt…     Gian phòng thật rộng rãi, tất cả đồ trần thiết toàn hoa lệ cực kỳ. Ngay căn bìa, Thầy chú ý cái trang sơn son thếp vàng phủ màn lụa đỏ. Kế đó là bức bình phuông chạm, lộng hai cánh cửa để ngỏ đặng thông qua phòng khách, phòng ăn. Tận góc trái trước tấm gương khổng lồ, đôi vợ chồng trẻ trung dựa ngửa bên hai chiếc ghế giao đầu, đương nô đùa trững giỡn với cậu con thơ. Đứa bé độ lên năm chập chững rượt theo quả bóng cao su mà cha mẹ nó thay phiên nhồi bắt, hễ nó lay hoay sắp trợt ngã thì vội vàng có bàn tay yêu dấu chực đỡ dậy liền. Cuộc đoàn viên ngây ngô êm đềm vui thú thay! Thầy rình coi mê mẩn…

Bỗng cửa buồng mé chái, một bóng người vén rèm bước sang. Người ấy vừa quở yêu: “Ở thầm vậy sao mấy con?” Tức khắc ba dãy chúc đài trên trần cùng chói lọi túa sua muôn đạo hào quang. Thầy trông rõ một bà trạc chừng năm mươi tuổi, mái tóc đã nhuốm sương mà vẽ đẹp hiền hậu mơ màng như pho tượng Hy Lạp cổ.

Đứa bé mừng kêu “Ngoại! Ngoại!” và đeo đòi lẩn mẩn xung quanh. Bế cháu vào lòng, bà ngoại ngồi trên bộ ván dài đối diện cùng con rể. Nãy giờ Thầy Sơn Huệ đứng trơ yên lặng, trong trí óc lao chao nhiều ý nghĩ bâng quơ. Sau lưng Thầy trời mưa bớt hột rồi, mấy lần Thầy toan dời chơn nhưng rút đi khôn nỡ! Người đàn bà kia có yêu thuật gì mà làm Thầy đem trìu mến. Đứa bé kia được chắt chiu cưng dưỡng, khéo tiêu biểu một gia đình hạnh phúc mà bấy lâu thâm tâm Thầy tưởng vọng khát khao! Sao tới đây lại lọt vào cái giờ phút nghiêm trọng, nó sẽ lôi cuốn đời mình… là đến nơi hội ngộ với ai đâu mà từ trước chắc cùng nhau có nặng lời giao kết. Nói vậy, cũng như một thiên tính đã hướng con chim Việt, ngựa Hồ về nước tổ, thì hôm nay một định mệnh trớ trêu lại đưa Thầy về chỗ hẹn, cho dầu hiện tình Thầy chẳng còn nhớ biết chút mảy may. Họ trò chuyện âu yếm đậm đà, Thầy lắng nghe câu được câu chăng; bất đồ người đàn bà ngước mặt ngó lên, khi Thầy lấp ló nhìn không đề phòng kịp, lỡ trớn Thầy cũng nhìn lại, bốn con mắt trao tráo dường hỏi han, tra gạn nhau lườm lườm. Thầy bủn rủn sững sờ rồi như cung chiêu thú phục, thốt nhiên Thầy ấp úng lâm râm: “Tôi đây! Ngọc Oanh!” Bà biến sắc…

Chiếc đồng hồ treo lỏng buông chín tiếng ngân nga trầm bổng. Cái máy hát vừa dứt bản thoạt ngừng, con rể bà mắc lăng xăng, kẻ lên dây thiều, người đổi dĩa thay kim, thừa lúc lộn xộn, bà xăm xăm thẳng tới phía Thầy, đoạn xem chừng ai nấy không hay, bà vùng toan mở cửa sổ, nghiêng mình dòm ra. Thầy kinh hãi thụt lùi, bà cảm động ngập ngừng che miệng nói với theo trong hơi thở:

– Tôi mong anh ngồi tạm ghế ngoài, đợi lát nữa tôi rảnh khách…

Thầy riu ríu vâng lời. Lỡ đường đêm hôm Thầy còn liệu nơi tá túc, chớ ở đây giàu sang cách biệt, mong gì họ một tiếng mời lơi, vậy mà người đàn bà kia bảo Thầy ngồi đợi đã! Hay trúng mình là kẻ thiền lâm, bà mới sẵn lòng niềm nở; song xét cũng vô lý, bởi thuở đời nay ai lại kêu Thầy sải bằng anh? Hoặc bà nhìn lầm chăng? Hoặc không chừng có ẩn tình chi trong thái độ ấy…?

Một chập lâu Thầy nghe phía sau có tiếng xe hơi rồ máy, kế sang số chạy xa… xa dần. Thầy thử nhìn vô thì trong nhà trống trơn chẳng còn ai hết, đồng thời trên lầu đi xuống một người tớ già tiến ngang lại cửa cái, mở khoá và đẩy nhẹ hai cánh cửa ra. Thầy lẹ làng thối bộ lại ngồi nguyên chỗ cũ. Người tớ già vặn đèn ngoài lên, ý hẳn ra vẫn còn ngờ vực điều chi nên vẫn đứng nhấp nhứ dựa thềm, ngó quanh ngó quất. Vừa trông thấy Thầy, ông liền bước tới kính cẩn thưa bày :

– Chủ gia tôi xin cầm ngài dùng cơm, còn nữa giờ nữa mới vào bàn, không dám nào thỉnh ngài theo tôi lên phòng ngài trước.

– Phòng tôi à ! – Thầy ái ngại nói.

– Vâng ! Phòng riêng của ngài. Nguyên chủ gia tôi sắp đặt cho đêm nay thầy có chỗ nghỉ ngơi.

Nói đoạn, ông quay vào, giăng tay banh cửa qua một bên, rồi cúi đầu đón khách.

Khó bề thối thác, Thầy chỉ còn có nước để mặc cho ông ta dẫn đi. Gặp phải trường hợp éo le ly kỳ, Thầy bán tín bán nghi, không chắc rằng mình đang tỉnh hay là mộng. Khỏi một dãy hành lang, người tớ già đưa Thầy lên thang gác, trên cái bàn gần đó Thầy thấy chất hai ba cái thùng cây nhỏ, cái thùng của thơ quán dược phòng gì gởi đến mà chưa khui. Tuy chẳng buồn quan tâm nhưng Thầy cũng đọc rõ danh hiệu chủ nhân đề trước địa chỉ “Bà Ngọc Oanh”.

Ngọc Oanh nào? Thầy tá hoả chưng hửng! Ngọc Oanh nào? Thầy đang vướng víu đa mang trong tâm hồn trong linh tính? Còn Ngọc Oanh nào bằng xương bằng thịt ngoài thực tế vậy ha? Nếu là cùng tên một người thì lộng giả thành chơn, sự thế mới thêm lá lay quái dị… Mình với ai âu hẳn có nợ nần duyên kiếp, mà hăm mấy thu dư công trình tu luyện sao chửa tiêu rỗi cho dùm! Hay chi còn gắn bó đeo đai, bể trần giờ tái ngộ nhau, chuyến đò đôi ngã ngược xuôi cam trắc trở, không khéo rồi trên đường thoát ly Thầy bị ma vương cám dỗ…

Thầy bỗng dưng khiếp sợ, kể mình như đã lâm vào trận tả đạo bàng môn…

Người tớ nhường bước đỡ Thầy lên thang. Thầy chẳng dám nói rằng, bấm tay bắt ấn Quan Âm miệng nhép nhép câu chú Lục tự đại minh chơn ngôn trấn an: “Án ma ni bát di hồng, Án ma ni…”.

Mở phòng cho Thầy xong, người tớ trước khi trở lui còn dặn dò kỹ lưỡng.

– Chủ gia tôi thành thật mời ngài cứ tắm gội thay đồ tự nhiên cho khỏi phải tị hiềm câu nệ. Đúng giờ ăn tôi sẽ lên bẩm lại, có gì cần ngài chịu khó gọi chuông.

Đợi ông khép cửa trở ra, Thầy mới tò mò xem xét trong ngoài một lượt. Từ phòng ngủ, buồng tắm chỗ nào cũng bài trí xa hoa lộng lẫy, họ tiếp đãi Thầy tươm tất là thế, còn thiếu gì nữa. Kìa! Trên giường đã sắp sẵn bộ quần áo tây, lại kèm cả sơ mi cổ bâu, cà vạt. Dưới tấm thảm có đôi giày, vớ và chiếc vớt. Mỗi món đều mới tinh sang trọng, Thầy cắc cớ mặc thử thì ô hay! Nó khít khao vừa vặn dường đặt riêng cho kích thước ni tấc của thầy. Ngắm soi trước giá gương, Thầy cũng công nhận dung mạo Thầy ra vẻ phong lưu, nho nhã. Ví đừng có ba dấu trường hương để thẹo, dễ thường thiên hạ đã phân biệt được Thầy với hạng văn học, văn minh! Nhớ tới câu “có cần dùng chi khác” vừa rồi, Thầy bắt mỉm cười lạt! Họ làm gì mà sắm đủ y phục ấy, Thầy nhắm không phải của chú rể, vì hình vóc Thầy mảnh mai nhỏ thó hơn nhiều. Tuồng như họ có dự định cuộc gặp gỡ đây, tuồng như họ đã tiên tri mặt mũi tên Thầy bằng phép nham độn. Ngài là đệ tử Phật, Thầy sao được cởi lớp bô vải mà ăn vận theo thời trang. Lại trong gói hành lý du phương, cũng còn một áo vàng, một quần nâu; vậy Thầy hẳn xin yết kiến chủ nhân với biểu hiện nhà chùa gẫm không đến nỗi bất hợp nghi, thất lễ!

Người tớ đứng ngoài tằng hắng Thầy sửa soạn đã chỉnh tề, lúc cùng ông xuống thang, Thầy thầm lựa mấy câu trần tạ: “Mô Phật ! Bần đạo muôn đội ơn chiếu cố, chỉ thẹn mình phận hèn đức bạc không đáng bận lòng nương nương đó thôi!”

Thầy khúm núm vô phòng khách. Người tớ vội quay gót, bỏ Thầy lơ láo một mình, vắng chủ nhà ngồi chờ suông, Thầy đưa mắt nhìn quanh, ngay trước mặt Thầy có treo bức họa một người đàn ông mà Thầy trông thực giống mình như tạc. Thậm chí mớ quần áo thầy mới xốc xổ ra đó sao nó cũng tương tợ với bộ đồ trong chân dung! Là ai nữa đây?

Ở bài toán Thầy đương tính chưa ra lại còn thêm một số vị trí mới; rắc rối biết dường nào! Bám tay vào khuôn cửa bình phong, Ngọc Oanh phu nhơn lần bước dùng dằng đi không muốn vững.

Nghe động, Thầy đứng dậy day qua.

Hai người vái chào nhau, ké né rụt rè, thời gian gián đoạn tại phút này và tuy gần trong gang tấc, nhưng họ dường xa khuất tận vô cực vô biên.

Thầy quên cái câu khai mào mà hồi nãy đã nhại hờ cẩn thận. Tội nghiệp! Họ chỉ nhìn nhau trân trối, chẳng ai mở miệng ra lời.

Hồi lâu Thầy đánh bạo lên tiếng:

“Trang phục kẻ tu hành quê mùa thô lỗ, mong nương nương tha thứ cho!”

Bà nhếch nụ cười nói :

– Tôi đâu dám ép.

Tâm tâm tương ứng, họ hiểu nhau ngoài cách chuyện vãn thông thường. Những lời họ không phát âm được đâu cũng bay vẫn lưng chừng, thành một thứ vô tuyến điện báo giao cảm họ trên từng không, nó như khúc nhạc tiên giữa hội bàn đào, đôi linh hồn họ đã theo một mạng lịnh tối cao mà hoà thinh thiên tấu.

Tưởng bây giờ là bao giờ,

Rõ ràng trước mắt còn ngờ chiêm bao”.

(Nguyễn Du)

Thầy cố gợi trong ký ức, thử tìm lại chút vang bóng ngày xưa. Chẳng hay chỗ ni người ấy và Thầy quen biết tự thuở nào? Mà cớ chi Thầy lăm le quỳ mọp dưới chân ai, ngỏ dò la về túc trái tiền sinh, ngỏ biểu bạch hoài nghi thổn thức… Họ lúng túng trong yên lặng, may thay người tớ lên tiếng nhắc chừng:

– Bẩm cơm đã dọn xong.

Bà gật đầu và ngó Thầy nói :

– Chết chưa! Tôi quên mời khách.

Bàn ăn đặt vỏn vẹn có hai cái ghế, một chủ một khách ngồi ngang nhau.

Thầy ướm hỏi:

– Tôi tưởng nhà còn đông người kia?

Bà hớt lời:

– Còn con rể tôi hả, vợ chồng nó ở cách đây mười ngàn thước, hễ vài bữa về thăm tôi chốc lát rồi lại đi.

– Vậy mà tôi vẫn ngỡ đã vào phòng “quý tế” chớ.

– Không đâu ! Phòng ấy…

Nói tới đó bà bỗng uất ức nghẹn ngào…, sau cùng bà gắng gượng kể nốt:

– Chẳng giấu gì… phòng ấy vốn của tiên phu. Từ ngày chàng thất lộc tới nay, tôi cứ giữ y không sửa đổi; Hăm lăm năm trường, nó làm nơi cấm đường để thờ bạn cũ, chính tay tôi lau chùi quét dọn, sự tử như sự sanh, thấy vật như thấy người. Ngài xem nó có phải căn phòng bỏ hoang không?

Thầy chưa kịp đáp, bà tiếp thêm:

– Ngài cho rằng phòng của rể tôi ư? Có đời nào nó dám vãng lai xâm nhập !

Tại sao với Thầy nước lã người dưng mà bà lại quá lòng tín nhiệm? Huống nữa, bà vừa phô trương cái dĩ vãng kia cho Thầy chứng kiến mà chi? Trong tấn kịch thân thế của bà, lựa phải có đợi Thầy góp mặt.

Bữa tiệc dọn toàn tương chao hoa quả, không phải nhã ý vì bà chiều khách mà thiệt riêng phần bà ăn chay hườn nguyện từ lâu. Thầy chẳng nỡ từ nan dù Thầy dùng ngọ nên không mấy đói. Câu chuyện càng hào hứng, bà miêu tả các danh lam thắng cảnh…, bà giới thiệu dân cư phong tục trong vùng… Thầy cũng vui miệng thuật lý lịch mình đường trần oan uổng, hòn máu bỏ rơi, biển Phật bao dung thanh bè Bát-nhã, thấm thía giọng chuông Bát-nhã, say sưa mùi đạo Bồ-đề. Trót mang nghiệp báo khéo hoài công, thay xác phù du bằng biển sắc không, mong hồi hướng về nơi Tịnh độ…

Một cách van lơn khẩn khoản, bà bèn chồm qua níu chặt Thầy nói :

– Thầy tu đành à?

Cả thẹn Thầy giựt tay ra đỏ bừng đôi má.

Nguy vậy thay! Đành hay không cũng mặc ý Thầy, can cớ chi nhau hòng bỉ thử? Đã là đàn na thí chủ, lẽ thì bà kính nể nhà Sư mới phải cho, chớ có đâu lôi kéo sỗ sàng như lấy lịnh ai trách móc.

Nhưng rồi Thầy bình tâm suy xét, cử chỉ bà dẫu trống trải song quyết chẳng lả lơi, lại nữa tuổi bà cũng đáng mẹ cha, không nên nghĩ quấy. Thầy nghiêm nghị phân trần:

– Mô Phật! Bần đạo từ sơ sanh cam ly gia cắt ái, không dám tham vọng gì khác nữa, miễn được xin dọn mình rửa tội mà gieo căn lành.

– Còn tôi…, bà xụ mày mếu máo.

Hay chưa, thế là nghĩa làm sao? Tình trạng này mỗi lúc mỗi gay go phức tạp; bà điên chăng? Thần trí bà lao xao bấn loạn, theo những luồng cảm giác đê mê. Còn Sơn Huệ trong tiềm thức Thầy hỗn độn hồng hoang, một cơn biến động dữ dội như hồi tạo thiên lập địa mới bắt đầu và cho Thầy trông thấy ít nhiều tia chơn lý…

Thôi đích rồi! Cái người mà bấy lâu Thầy mơ ảo gọi huyền, dè đâu nay gặp thiệt. Ôi oan gia nghi giải bất nghi kết; phải Thầy có phép tàng hình độn thổ lánh nhau là hơn. Kẻo còn lịu địu, lôi thôi, một thân mà sống tới hai đời lụy mình lầm ai, lỡ làng mâu thuẫn; nhưng lòng nào nỡ cự tuyệt bà! Nhột nhạt với người tớ hầu bàn, Thầy nói thẳng:

– Mà bần đạo là chi của bà chớ?

– Hãy khoan… bà đổi sầu làm vui.

– Rồi Thầy sẽ rõ…

Liền đó, bà truyền bưng trà nước bánh mức lên từng trên. Lạ nhỉ sao không nghe tiếng ứng đáp dạ thưa. Thầy vừa nối gót theo bà vừa ngó ngoái lại xem thử. Thì cơ đào ! Người tớ già bụm mặt khóc nức nở, tức tưởi như trẻ con.

Bí mật! Từ chủ cho đến tớ nhà này đều có vẻ khả nghi bí mật… Để tách nước tráng miệng xuống, Thầy chậm rãi yêu cầu:

– Xin nương nương cắt nghĩa cho, vì cớ nào đoán được bữa nay có bần đạo hoá trai?

Bà nói lẫy:

– Vì cớ nào ! Há riêng ngài Ngài không có linh cảm gặp tôi, đúng với một thời giờ ước định sao?

Thầy lắc đầu nói:

– Thưa không.

– Ô hay! Vậy chớ hăm lăm năm trước ai đã hiện về nhận cùng nhau hẹn ước buổi trùng lai? Ngài quên chăng?

Điềm tĩnh Thầy trả lời:

– Thiệt tình bần đạo không biết gì hết.

Bà ứa lụy thở dài:

– Sờ sờ người cũ là đây mà nhìn chẳng được, khe khắc nước đời đến thế mới liệu làm sao? Tin ở mấy lời cơ bút, thiếp vì duyên nên nuôi lấy tục trần, ăn nhằm bát cháo tái sanh; chàng lạc bước khiến sa vào tôn giáo. Bây giờ chỉ thắm khó hòng se lại, tơ hồng chưa dễ gỡ ra, ngỡ ngàng cái kiếp vị vong, cao khiết tấm thân trì giới. Than ôi! Phải dè hoá đá tương tư, cửa bể cánh buồm nuôi mong mỏi, hơn để dơ tuồng goá bụa, ngả ba đường cái mớ bá vơ! Khốn những xét qua tung tích biết hẳn lứa đôi; vậy thôi thà đừng biết cho xong, chớ bao nỡ thấy nhau mà lãnh đạm! Nếu là tại ai kia mưu sự, đã không chắc gì còn đoàn tựu, thì sao chẳng ở luôn trên thượng giới, lại đèo bồng xuống nữa mà chi? Rồi ra chỉ gạt lớp nhau, con đò vẫn đậu bến quen, khéo cho khách khoác áo cạo đầu làm mặt lạ! Vô tâm cảnh mới, há trách chi tình, thất tiết thờ xưa, oan riêng nỗi giận. Đôi chối mình mang điều vọng ngữ, truy hoài họ sợ tội tà dâm… Có ngờ đâu đã lần tử biệt nay lại sanh ly, trước đây là chịu tang cho phần xác, còn nay lại chịu tang cho phần hồn, cũng thì với một người chồng mà số thiếp lại hai lần chích mác! Vậy mà luống tháng đợi năm chờ, tưởng chừng khi tái hội rồi sẽ được cổi già hoá trẻ…, mở tiệc hoa chuốc chén quỳnh, chứng đêm thất tịch nối thề bá niên…

Ngần ngừ bà thỏ thẻ :

– Giá ngài cho phép em nhắc chuyện tiền thân.

Với giọng thiết yếu ngọt ngào, câu ấy quả có mãnh lực kêu rủ ép nài, ám ảnh. Trước cảnh ngộ khó xử, trót lở Thầy cũng liều nói :

– Mô Phật ! Dám phiền nương nương chỉ giáo.

Ngài chưa dám nhận mình sao? Ngài vốn tên Nguyễn Hồng Sơn, bởi thế mà lúc đi đầu thai còn nắm giữ một bớt son làm ấn chứng.

Thầy giật nẩy người, thảng thốt ngữa bàn tay ra, nét sổ nét ngang trên chữ sơn đều lộ ửng lên chẳng khác chi mới đồ bằng máu, Thầy nói:

– Bà là mẹ của tôi đấy ư?

Bà vói chụp miệng Thầy nói:

– Ý ! Đừng xưng hô như vậy không nên! Hồng Sơn yêu quý ôi! Hãy ráng mà nhớ lại.

Khách nhìn sững chủ nhà nói:

– Thiệt tình tôi không nhớ gì hết, bà thử nói rõ coi! Bà chẳng phải là mẹ tôi chớ bà là ai đây?

Ngọc Oanh phu nhân chứa chan hy vọng, run rẩy nói cà lăm:

– Em là vợ… của ngài… kia mà!

Dường như bị sét đánh, Thầy tối tăm sững vửng chết cứng như trời trồng. Đôi ba phen dợm chối cãi phân biện, nhưng Thầy đớ lưỡi nghẹn lời, thốt không ra tiếng. Hồi lâu mới nghe Thầy rên nói:

-Trời ơi ! Tôi điên rồi chăng? Hay là bà cuồng tâm loạn trí?

Bà an ủi dỗ dành nói:

– Hồng Sơn anh! Hai ta đã gãy gánh giữa đường, kẻ dương gian người âm cảnh, may còn về được với nhau cho trọn ba sinh hương lửa. Là em cam trải bao khắc lụn canh tàn gối đầu nuốt lệ, một tấm chơn thành âu cũng thấu cao xanh. Thì có điều chi nữa mà ngờ, chàng nỡ nào quên vội!

Thầy gạt ngang nói:

– Thôi đi ! Tôi biết gì đâu mà hòng hiểu chớ? Chẳng qua bà thêu dệt cho thành ác mộng, lầm bà đã vậy, chớ lầm chi tôi kẻ xuất gia. Huống xuất gia đoạn diệt thế tình, là giác mê khải ngộ, khử ám hồi minh, thực hành lẽ: “Vô ngã, vô nhơn, vô chúng sanh, vô thọ giả”, ăn năn cả trái oan lớp trước, chận đón từ quả báo về sau, bà nên thể dùm mà đừng thêm đeo đẳng. Bề gì tôi cũng phải tỉnh, dù có phụ ai chăng nữa cũng đành!

Rồi kích thích bởi tự tính, Thầy đứng phắt dậy dậm chân cam đoan nói:

– Tôi phải tỉnh! Tôi phải tỉnh!

– Coi nho nhỏ vậy chàng!

Bà giả lả khuyên lơn như mơn trớn vỗ về một đứa em chúng chứng:

– Chàng ngồi xuống đây cho thiếp tôi tỏ cạn khúc nôi, đặng chàng khỏi dụ dự nghi nan, chối từ căn bổn. Lương duyên do túc đế, chàng sẽ thấy chỗ thậm thâm vi diệu trong lúc tác hợp cơ trời. Duy em thì kể chắc có ngày này, đã làm như Vĩ Sinh ôm cầu, mỗi đêm chong đèn đợi nhau, không hiểu tại sao chàng trễ hẹn?

Thầy hỏi :

– Tôi hẹn hồi nào?

– Ấy chàng để thong thả cho em nói, tang chứng còn đó chớ em khá bịa đặt thị phi. Chàng ơi! Mấy năm ân ái, một dạ xướng tuỳ, vợ chồng ta xây tổ ấm uyên ương ở trên chế độ gia đình và thành kiến xã hội. Là một sinh viên Nam kỳ du học, chàng được giao thiệp ngoài Hà Nội, dặm ngàn dong ruổi tâm phúc tương tri. Ngặt vì chàng còn từ mẫu, em còn lão thân, hẹp hòi lượng cả luống chấp nê, dại dột lòng thơ đi phản kháng. Thuở ấy, chàng vừa tốt nghiệp trường công chính, tin nhà liền kêu nhắn buộc phải về. Trong mình em nghe có mang, song le bên hiếu bên tình…, em cắn răng bóp bụng chia lìa, chớ không đang lấy nể nơi hòn máu phôi thai mà cầm chân quân tử. Thà vậy kẻo chàng thêm ân hận, nếu như gương vỡ lại lành thời tốt, nếu không may nữa, em cũng cam ẩn nhẫn nhường chồng, nuôi con. Đời cua cua máy, đời cáy cáy đào, đứa trẻ kia dầu gái hay trai quyết chẳng nên lưu lại một bóng sẩm một vết nhơ gì… có tổn hại đến nhau trên bước đường tương lai sự nghiệp. Thế rồi thỏ lặn ác tà bóng chim tăm cá, chàng vinh quy mà em chẳng được vu quy! Ở đâu môn đăng hộ đối cho mẹ kiếm dâu thảo, đặng chàng kiếm vợ hiền! Em chỉ mong cảnh xinh ngó chực hương thừa thơm lây làm con bạn tinh thần thôi, hồn mộng gởi theo người non nước. Ai dè chàng sắt son vững dạ, lấy chi em tường hoa ngỏ liễu mà dốc đem vào bực bố kình. Cớ nên trái ép huyên đường, chàng bèn xin sang Pháp học thêm, kỳ trung là dục hưỡn cầu mưu, chờ cha mẹ nguôi ngoai hạ đoái, xét tới em hàn vi tấm mẵn. Em hay tự sự thì chồng đã đáp tàu xuất dương rồi. Kể ngay ra em cũng đắc tội với chàng, hẳn vì em mà chàng mới ly hương. Thương ôi! Bóng xế nhành dâu, lấy ai thay thế cho nhau đặng ấp lạnh quạt nồng, gọi là chút từ ô phản bổ, phải em ngăn dứt kịp cũng chưa đến nỗi nào! Để nay chàng phiêu bạt, linh đinh, dẫu rằng sẽ lập chữ hiển vang, nhưng trót chẳng lỗi niềm hiếu dưỡng! Em thì danh phận gì đây mà hòng ra mặt, nghĩ thiệt không bằng con đòi đứa ở, chúng còn được sớm hôm gần gũi, dưng cơm hầu nước cho mẹ nhờ…, phần đương thai nghén cận ngày, em đâu xốc vác đặng như xưa mà mua gánh bán bưng lấy công làm lời ít nhiều toan lén lút giúp nhau trong khoản bạn bè thù tạc nơi xứ lạ.

Em sanh con Ngọc Lan cảnh nhà càng túng quẩn, sau đó cha già bỗng lâm bệnh rồi thọ chung. Trong thế mẹ có dọ dẫm điều tra, nên cũng thấu rõ bề em tuy sa sút cơ bần, song vẫn kiên trinh trực tiết, khiến cho người cầm lòng không đậu, đến thân hành ra nhận dâu nhìn cháu, rước mẹ con em. Ấy là một cách kín đáo ân xá đôi ta, vừa cũng là gián tiếp mượn dây thê nhi mà trục chàng mau hồi cố.

Nhưng chàng mãi bận sách đèn, năm chầy lần lựa con Ngọc Lan đầy tuổi chàng mới trở gót hài.

Thương tình mẹ đã đứng tác thành cho:

Đoàn viên mở tiệc nhà lan,

Hoa soi ngọc đuốc, hồng gian bức là.

Cùng nhau giao bái một nhà,

Lễ đà đủ lễ, đôi đà xứng đôi”.

(Nguyễn Du)

Kế xảy cuộc Âu châu binh cách chàng buộc lòng tình nguyện tùng chinh. Đương cơn bình địa nổi phong ba. Khốn nạn thay! Em tưởng rồi đầu xanh tóc bạc, chung hưởng ngày trời, nào hay số kiếp oái oăm khác gì bọt nước sương mai, tụ tán thoáng qua không mấy chốc, biết vậy, thà em cứ mặc chàng thân viễn khách, ở nhà một mình em cũng đủ trên thờ mẹ dưới dạy con, chớ cần chi nay có mặt chàng để mà vĩnh quyết đưa nhau, đưa cảnh sinh ly thành ra tử biệt!

Cùng vượt trùng dương theo cơ binh tiếp viện. Chàng được sung vào đội tiền quân, lên trận tuyến giữa vòng đạn lạc tên bay. Cái chết cầm nhẹ tợ lông hồng, trên bãi sa trường lại chất thêm đống xương vô định. Chính bữa chàng bị hại, mẹ và em cùng đều thấy chàng hiện hồn báo mộng, mình đẫm máu, lụy đầy tròng, tỉnh ra em đã hiểu sự chẳng lành. Thôi còn chi mà rày ngóng mai trông, má hồng phận bạc như em không được lấy một lời của tình quân khi nhắm mắt!

Chàng ôi! Khi đi thì nguyên vẹn chồng em, mà về thì chỉ có chiếc áo bào giao trả lại, đành rằng ai vị quốc vong xu em đâu dám tiếc, ngặt chạnh tủi cho mảnh di hài cô quạnh, vắng tanh nhang khói, dầu dãi nắng mưa!

Bà nức nở sụt sùi! …

Trước sự đau thương kể lể của chủ nhà, Thầy Sơn Huệ cũng áy náy bồi hồi vẫn cắm đầu lẳng lặng.

Không khí càng nặng nề khó thở, đã mấy lần Thầy bưng tách nước hầu cạn hớp chừng cho trôi. Vói châm trà thêm, bà bất ý quơ chiếc nhẫn đính hôn chạm nhằm tay khách, Thầy dùn mình rởn óc, khắp da thịt Thầy như bị một luồng điện cao độ chạy rần qua.

Thầy nhóm ghế ra xa, mặt mày dớn dác.

Hơi bẻn lẻn, bà ngó xuống và dịu giọng:

– Chàng khỏi phải nghi ngại, em chẳng hề định ý xúc phạm đến nhau đâu. Chàng hãy bình tỉnh cho em có đủ can đảm khơi đống tro tàn mà nhen lò kỷ niệm bén lên để đôi lòng ta cùng sưởi.

Đoạn bà đi lại mở tủ bên cạnh đem ra một hộp nữ trang và thận trọng lấy ra từng món và vừa trình bày dẫn tích.

Dưới mắt Thầy, lần lượt biểu diễn cuốn phim sanh thời của một người quá cố mà không chừng Thầy đây lộn kiếp.

Nào mớ chân dung hồi niên thiếu…, nào hình chụp chung mấy nơi du ngoạn đã làm khung cảnh cho cặp tình nhân chỉ biển thề non…

Ảnh này đùa nghịch với con Ngọc Lan, bức thường phục kia trước khi nhập ngũ.

Tiếp theo là những thư từ bút ký, các hạng huy chương rồi đến đạo sắc tứ ghi công trạng đấng trung thần.

Nể ý bà, Thầy cầm săm soi mỗi món di vật. Thầy thầm đọc tờ truy phong:

 NGUYỄN HỒNG SƠN

Trung uý cơ binh thứ VI, lục quân thuộc địa, tình nguyện tùng chinh cho tới khi mãn giặc.

Sĩ quan lỗi lạc nơi chiến trận đã tỏ gương hăng hái bạo gan, lại khinh thường sự nguy nan, ai nấy đều khâm phục.

Trong một nhiệm vụ cảm tử, bị vây hãm giữa vòng binh nghịch rất đông, và nhiều khí cụ hơn vẫn đốc xuất đội binh mình chống cự oanh liệt cho đến phút cuối cùng.

Bắc đẩu bội tinh ngày … tháng … năm 1915.

Tưởng lục số … ngày … tháng …. năm 1915.

*   *     *     *   *

Dầu sao đi nữa, Thầy nghĩ não nề cho trang sương phụ, đăng đẳng ngày dài nơi cõi lòng ai thủ tiết, chiếc ngai vàng vẫn âm thầm bền vững chực quân vương, với đức tin tha thiết ở một phép cao cả, phi phàm; biết đâu hương nguyền kẻ phòng không chẳng nghi ngút khắp cửu trùng, lại chẳng vấn đoanh truy cản bước siêu thăng không để cho linh hồn tử sĩ được thảnh thơi về cực lạc! Biết đâu chẳng có cuộc trùng lai tái thế do sức cảm ứng thiêng liêng của đôi oan khí tương triền? Mà nếu như vậy thì tiền thân là Hồng Sơn này ư? Nhưng thứ chuyện huyền hoặc hoang đường mới lấy chi làm chắc! Phần đóng vai quan toà, phần cũng là sự chủ trong một nghi án không tiền tuyệt hậu, điên đảo hàm hồ Thầy khó định thực hư. Vả chăng thực hư đều là sắc tướng bên ngoài, tốt hơn nên đem thiện niệm mà hàng phục vọng tâm, Thầy chối bừa đi là hợp lý.

– Té ra lệnh tướng công đã tiên du từ lâu…, chí ư bần đạo là người sanh sau đẻ muộn, quả mọn căn hèn, bà chớ nhận lầm mà tội, thiếu chi người giống người!

– Không, em lầm thế nào được, thưa chàng! Chàng có muốn đối nại thì đây!

Bà lấy một bao thơ không dán để dưới đáy hộp đưa tận tay Thầy nói:

– Em xin trưng thêm một bằng cớ xác thực phân minh. Nó là mười bài thi “Thập thủ liên hườn” mà trước kia Thầy lên cơ giáng bút.

Bất đắc dĩ, Thầy tiếp lấy dở ra xem.

Nỗi nhớ niềm thương nhắn vợ con,

Trăm năm những tính cuộc vuông tròn,

Tình sâu nghĩa nặng đang êm thắm,

Gương vỡ bình rơi bỗng mất còn.

Côi cút biết chi hòn máu đỏ,

Dưỡng nuôi cậy ở tấm lòng son,

Nhẫn từ u hiển chia đôi ngả,

Dờ dật hồn oan khắp nước non.

* * * * * *

Nước non thề thốt cũng trò chơi,

Một thác là xa mặt khuất lời,

Xương trắng dẫu mang tình xuống mộ,

Khí thiêng còn vướng mộng ngoài khơi.

Ba nghìn thế giới chưa cam phận,

Muôn mối nghiệp duyên khó dứt lời,

Miễn được cùng nhau cho gặp lại,

Quản chi vật đổi với sao dời.

* * * * *

Sao dời vật đổi đến bao giờ,

Đôi đứa đầu xanh lỡ tóc tơ,

Ước cũ lâm đền trong kiếp khác,

Dấu nhà tạm gởi chút con thơ.

Hữu tam bất hiếu cam hề rủi,

Tùng nhất nhi chung cám đạo thờ,

Nguyên cũng thoát sanh về cõi tục,

Chóng chầy âu phải đợi thiên cơ.

* * * * *

Thiên cơ sẵn đợi buổi trùng lai,

Duyên trước tình sau vẹn cả hai,

Cửa Phật bao đành cam chứng quả,

Nợ trần trót đã hẹn đầu thai.

Thà thay hình xác lên gần gũi,

Hơn cỡi gió mây thả lạc loài!

Chỉ ngại nước bèo khi hợp bến,

Hững hờ ai ngỡ khách là ai?

* * * * * *

Là ai hay chẳng khách qua đường,

Cá bể chim trời chịu dở dang,

Khéo bẻ về đâu cành Liễu thị?

Còn mong chi nữa bước Tiêu lang?

Lai sinh ví lỗi dây cầm sắt,

Tiềm thức nào nguôi giọng đá vàng,

Chất nặng bên lòng hai giấc mộng,

Bụi hồng mắt trắng nghĩ sao đang?

*   * * * * *

Sao đang tử biệt với sanh ly,

Nếu chẳng nhìn ra trở lại chi?

Động tới linh đài bao tiếng vọng,

Nương theo cơ bút mấy vần thi.

Con đường nhơn quả đeo thêm mãi,

Cái cuộc đoàn viên quyết có khi,

Tháng đợi năm chờ tua gắng chí,

Thời gian thắm thoát gẫm lâu gì?

* * * * * *

Lâu gì một khoảng của vô biên?

Tan hợp luân hồi há ngẫu nhiên?

Trời hẳn dành cho nhiều hậu nhựt,

Mình sao tránh khỏi mớ tiền khiên?

Thân tàn cảnh muộn so chi tuổi?

Nắng ngoái chiều hôm nối lấy duyên,

Bến cũ đò xưa rồi tái ngộ,

Thỉ chung dễ dám để sai nguyền?

*   * * * * *

Dám để sai nguyền trái hẹn đâu?

Rồi đây Ô Thước nối đường Ngâu,

Cõi trần lại thấy người thiên cổ,

Đời goá khoan nghe khúc Phụng cầu.

Chớ tưởng vọng phu là hoá đá!

Cho hay Hiệp phố vẫn hườn châu,

Còn đêm thất tịch còn duyên lứa,

Còn vững tình chung giữa bể dâu.

*   * * * * *

Giữa bể dâu mà hiện cố nhơn,

Máy huyền vi lộng giả thành chơn,

Trông vào bức hoạ in gương mặt,

Lật thử bàn tay lộ chử “SƠN”.

Chuyện trước khơi lòng mơ đứt đoạn!

Tớ già nhận chủ khóc đòi cơn,

Hai mươi năm nữa trong mưa gió,

Sẽ tới lầu trang tỏ thiệt hơn….

*   * * * * *

Hơn thiệt cho tường dạ sắt son,

Nhờ tay đồng tử thảo hàng loan,

Tình dài đêm vắng nên dùng thẳng,

Nước thẳm non xa nhắm mỏi mòn.

Danh hiệu người xưa ghi khắn khắn,

Hồi chuông kiếp mới giục bon bon,

Bao nhiêu điều nhắn làm tin đó,

Nỗi nhớ niềm thương nhắn vợ con….

Đêm thất tịch, Ất Mão niên.

(Tuần bá nhựt )

Rành rành tuồng chữ của Thầy, lời lời châu ngọc hàng hàng tất giao. Nỗi yêu thương khắn khít giữa u hiển đôi đàng đủ bảo đảm cho sự tình bà thố lộ; càng đọc tới Thầy càng thấy dọi rõ bóng mình trên lịch trình cận đại. Hết Nguyễn Hồng Sơn rồi hoá thành Sơn Huệ; rủ xác tằm mà tượng ra hình nhộng, mối dây nhơn quả nối liền giữa hai chặng trần gian, Thầy ngỡ cho mình chợt thức giấc mơ, bỗng như chết đi sống lại tức thì, lớp lang tuy có khác tấn trò song đào kép vẫn còn y gánh cũ. Gẫm trong bể khổ bến mê phát nguyên từ vô thỉ, cái mà ta thấy gọi là “ta” đó há chẳng là tuỳ nghiệp duyên cấu tạo, phải chịu cả hằng sa số kiếp chìm nỗi truân chuyên. Mãi bây giờ mới đến lượt Thầy, mà Thầy là ai ?

Bất quá một giã hiệp lâm thời, thoạt sanh, thoạt diệt lây lất cõi phàm, cứ một hiện thân là mỗi chủng tử cho vị lai, dập dồn oan oan tương báo…. Thầy kết luận mượn câu sách đề ám chỉ mình “Tiền thuyền, hậu thuyền an trí nhỉ ngã, phi tái lai nhân”.

Tựa một bị cáo chờ tuyên án, Ngọc Oanh phu nhơn dò ngóng sắc diện Thầy, lòng bà nơm nớp lo âu. Bà hồi tưởng những ngày qua khô héo lạnh lùng…, tin chàng tử trận đem bệnh nguy ngặt cho mẫu từ. Trời ơi! Lá xanh rụng trước, lá vàng bay sau. Đầu em chồng chất tang tóc, vai em oằn oại cang thường chút vì giọt máu trên tay nên cam núm nắm… may là trẻ thơ dễ nuôi dễ dạy, nhờ phước nhà nên đã được duyên ưa phận đẹp, nhưng xuất giá thì nó phải tùng phu. Sáu năm rồi trơ trọi với cảnh già, nhưng khi ôn lại bức di ngôn, em chắc thế nào cũng tìm ra trong sớm muộn.

Bà thầm vái: “Như Hoàng thiên chứng chiếu tấm lòng thành, xin khiến xui chàng nhớ lấy việc xưa đặng chồng còn mừng vợ, cha còn biết con, một bữa sum vầy đầm ấm”.

Thái nhiên huỡn đải, Sư Sơn Huệ xếp trả xấp di thư vào bao, không dè chỉ có liếc sơ mấy chốc thôi mà Thầy đã thuộc làu, mường tượng chính mình vừa mới viết. Thầy trầm ngâm tách bạch lại từng câu:

Xương trắng dẫu mang tình xuống mộ,

Khí thiêng còn vướng mộng ngoài khơi”.

*   *   *   *   *   *   *   *

Động thấu linh đài bao tiếng vọng,

Nương theo cơ bút mấy vần thi ”.

*   * * * * *   *   *   *

Thân tàn cảnh muộn so chi tuổi,

Nắng ngoái chiều hôm nối lấy duyên”.

*   * * * * *   *   *   *

Và nhất là trọn bài thứ chín:

Giữa bể dâu mà hiện cố nhơn,

Máy huyền vi lộng giả thành chơn,

Trông vào bức hoạ in gương mặt,

Lật thử bàn tay lộ chữ “Sơn”.

Chuyện trước khơi lòng mơ đứt đoạn,

Tớ già nhận chủ khóc đòi cơn,

Hai mươi năm nữa trong mưa gió,

Sẽ tới lầu trang tỏ thiệt hơn”.

Thì ra cái giờ tiền định “hội hiệp chi kỳ” đáng lẽ phải đến rồi từ đêm thất tịch năm Bính Tý, thảo nào bà chẳng quở Thầy trễ hẹn, bởi chưng Thầy phí mất năm năm ranh lộn, hai lần đứt nôi. Vì sao chậm chơn trái bước con đỏ cửa già? Còn người nhưng chẳng còn duyên để bà mỏi mắt bụi hồng, xa thì đành cõi suối làn mây, gần ra cũng bóng hoa ánh nguyệt. Vì sao vay là Nguyễn Hồng Sơn mà trả là Sơn Huệ? Ai ăn mặn làm ai khát nước? Ai cho phép ai nhơn danh hậu hữu mà ký kết bao tình thâm nghĩa trọng gán qua Thầy. Song đã hết chưa? Hay ngoài Ngọc Oanh ra Thầy còn nợ xã hội, nợ quê hương, thiếu đủ linh tinh với tang bồng hồ thủy.

Hại thay! Một điểm linh quang đang nhóm, muôn lòng tà kiến vội xao! Mờ gương “vô ngại từ bi”, nhiễm bợn “vô minh phiền não”. Cũng tỷ sơn cùng thủy tận, con đường Thầy tu hành khổ hạnh, tới đây là thử lòng điểm đạo mức hiểm nghèo. Thầy như đang đứng gập ghềnh trên chót đá cheo leo mà nhìn xuống toàn mù mịt vực sâu hang thẳm.

Lau lệ, Ngọc Oanh phu nhơn rỉ rả nhắc nhở Thầy :

– Đó chàng còn tháo trút nữa thôi?

Khác nào tiếng “bớ” của oan gia nó kêu giựt ngược Thầy vang dội trong tiềm thức! Thầy đứng lên lảo đảo, chới với giữa hư không, rồi ngã phục dưới chơn bà bất tỉnh nhơn sự….

Trời rựng đông, trên chiếc giường thấp xủ mùng Sư Sơn Huệ vẫn nằm thiêm thiếp, quỳ úp mặt bên cạnh gối, Ngọc Oanh phu nhơn đầu bù tóc rối, nước mắt dầm dề, hai tay bà ôm choàng cổ Thầy, ngực bà cũng thoi thóp cùng nhịp thở Thầy mỏng manh hơn sợi tơ.

Từng chập bà ngước lên lay gọi Thầy lạc giọng :

– Coi nè ! Trời ơi ! Tỉnh lại bớ anh Hồng Sơn ! Bớ Hồng Sơn anh tỉnh lại!

Sư thì bàng bạc giấc nồng thả hồn theo mông lung, giờ khắc như lùi bước, kéo Thầy về với mấy mươi năm trước, với quãng đời ô trọc phàm phu…. Thầy nhận mình là Nguyễn Hồng Sơn và đương hoàn toàn trở lại sống từ đầu chí đuôi trong kiếp ấy. Một lần nữa, bao nhiêu sự thế duyên trần đều hiển hiện ra cho tha hồ Thầy tiếp xúc, gieo rắc trên đống phân lòng, Thầy hứng hết những hột thất tình lục dục nó nảy mầm đâm tược đúng in như thứ lớp tiền sinh.

Khi tuổi trẻ gối đầu thung huyên tới khi cắp sách đến trường, kế lớn lên đi Bắc, đi Tây…. Buổi hồi hương áo gấm múa sân lai, đêm hợp cẩn đuốc hoa phòng động…. Kịp lúc phải dẹp niềm tư, tuân phép nước, dấn mình nơi khói lửa can qua, ghe phen bởn mặt tử thần lấy câu: “Mạng ấy yểu mà danh ấythọ” làm khẩu hiệu. Vì vậy, Thầy lập nhiều chiến công rực rỡ, chí hồng được trớn tung mây gió, chứng non sông còn đính ước khúc khải hoàn.

Dè đâu cơn rủi đã sa cơ, hùm thiêng đuối sức vẫy vùng, hơi tàn nuối giữa trùng vây, Thầy đứng chịu thịt rơi máu đổ. Trong sát-na hồn hướng vọng quê nhà, trối lời giả biệt “Mẹ già con dại thôi ở lại…, cậy cùng em gánh vác vẹn đạo tùng…”. Thầy cả kêu “Ngọc Oanh! Ngọc Oanh!” rồi tươi cười đợi chết.Tiếng mớ to đánh tan giấc mộng, Thầy ư ứ chớp mắt trở mình, bàng hoàng dở tỉnh, dở say; Thầy nghe văng vẳng như giọng người yêu bên trời gởi nhắn: “Có em đây! Chàng ơi!

Định thần lại, Thầy phăng lần đầu dây mối nhợ nhớ suốt nguồn cơn, trước thực tế ngang trái cơ cầu Thầy thâm hiểu số mệnh mình và nguyện không thối chuyển “Tu nhất kiếp, ngộ nhất thời!”

Ngọc Oanh bi ai thống thiết dường chụp chộ cái thây ma, chẳng còn đè nén được tình riêng chất chứa bấy lâu, bà tức nước vở bờ, vực ôm đại thầy vào lòng hôn hít bất kể… và âu yếm nói:

– Chàng hãy sống dậy chớ! Sống dậy giữa thanh thiên bạch nhật cho trúng tên trúng thứ kẻo vợ hiền con thảo luống chờ mong.

Đẫm má Thầy giọt lệ thuyền quyên, vắn dài nhểu nóng, tận tạng phủ Thầy uể oải, mỗi tế bào như nhảy múa quay cuồng theo tia sinh lực bà chuyển sang. Thét rồi xem trong âu yếm có phần lầy đây, Thầy nhướng mắt rùng mình vừa khẽ bảo :

– Buông tôi ra nào!

Bà hoảng hốt kêu lên :

– Ý coi chàng lãng trí rồi sao? Em là Ngọc Oanh vợ chàng kia mà, chớ phải ai đâu lạ?

Thầy chuẩn y:

– Quả vậy. Nhưng tôi không còn là tôi nữa, mà là một cưỡng danh, một giả tướng, một linh hồn sa đọa, đương tự tân cải hoá đặng hòng phản bổn hườn nguyên.

“Mùi thiền đã bén muối dưa,

Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sòng.

Sự đời đã tắt lửa lòng,

Còn chen vào đám bụi hồng làm chi?

Dở dang nào có hay gì?

Đã tu tu trót kiếp này mà thôi…”. (Nguyễn Du )

Bà giật mình rên rỉ:

– Không thể như thế được, em chỉ biết chàng là chồng em trước nhân loại, đã chứng minh có quỷ thần nhựt nguyệt mà hứa cùng nhau đời đời kiếp kiếp nối cơ duyên. Thì còn em, em còn quyết giữ lời, may mà kịp gặp nhau đây, ai nỡ vội xem thường, xem khinh bơ thờ, lạc lẽo. Vả lại con đường tu là phải vượt qua tam giới tích lũy công đức trong vô lượng hoá thân. Vậy hẹp gì chàng không cắm thuyền đỉnh đãi bên lề thời gian, ngỏ hầu em báo đáp phỉ ân tình, sau dầu muốn nhổ neo tách bến cũng không đến nỗi muộn!

Chàng khá suy xét kỹ; ví như oan trái đôi ta mà thanh toán, sao ngay lúc chàng tuẫn tiết, phương từ bi chẳng tiếp dẫn về luôn? Để chi vấn vít oan hồn, chàng vẫn từng “thần giao cách cảm” với em, nay sao dứt nghĩa xưa…

Thầy dằng co giãy giụa nói:

– Buông tôi mà! Bà nên thả tôi đi, ở đây thêm đau khổ cho bà, thiệt làm tôi bất nhẫn.

– Em có sá chi? Trái lại em rất vui lòng thọ lãnh nếu chỗ đau khổ ấy chính tự chàng gia ban. Cái tình của em quá nặng nề, thì dẫu biểu phơi gan trải mật nát thịt tan xương, em chẳng chút phàn nàn than oán.

Môi bà mấp máy run, mắt bà rưng rưng hàng lụy đắm đuối liếc nhìn Thầy. Nông nỗi đoạn trường là thế! Nhưng cũng khó mà lay chuyển cho Thầy hồi tâm.

Nằng nằng Thầy la át:

– Bà có buông tôi không? Đừng để tôi nói nhiều e khiếm nhã.

– Chết được! chao ôi!

Bà đẩy mạnh thầy ra, ôm ngực ngoẻo đầu như vừa bị mũi tên độc bắn xuyên tim phổi, rồi ngó Thầy lấm lét, bà bò lết cứ thụt lùi… thụt lùi. Trông vào lầu mộng sụp đổ tiêu điều, bà ngây ngất xốn xang bưng mặt trốn.

Sư Sơn Huệ tuột lẹ xuống giường. Thầy chạy ùa lại cửa sổ ngay đó tốc màn lên…

Bên ngoài trời đã tửng bưng, tiếng chim ríu rít trên cành; những giọt mưa hồi hôm còn đọng trên ngọn cỏ lá cây, chấp choá lung linh trong ánh sáng. Xa xa dưới chân đồi, đồng lúa xanh tươi còn dờn dợn sóng, là xà đôi chỗ vài con ó trắng lởn vởn liệng kiếm mồi. Thầy ước được phóng lòng mình ra tận đâu đâu, ngặt tầm mắt Thầy lục soát càn khôn, day đụng bít bùng phong toả. Chán nản Thầy quày quả trở vô. Ngẫu nhiên, dòm bóng mình phản chiếu trong kiếng tủ dựa tường, Thầy mới hay mặt Thầy đã má hóp, da nhăn tóc hoa râm điểm bạc. Một sự tàn phá cấp kỳ dung mạo do có một đêm khủng hoảng tinh thần. Coi Thầy già háp cỡ ba bốn mươi tuổi….

Còn nói về Ngọc Oanh phu nhơn thì càng lại tiều tụy thê thảm hơn nữa.

Thầy cúi đỡ bà dậy và kéo ghế vịn bà ngồi. Đứng cầm tay bà Thầy giác đác nói:

– Nương nương tha lỗi ! Bần đạo không có ý bẽ bàng lơ đãng cho ai cam tủi nhục vì ai. Nhưng đến nước nầy cần phải lấy thành thật đãi nhau, hoạ may trước cảnh sâm thương chúng ta sẽ biết thuận tùng nhẫn nại.

Bà ngại ngùng luống cuống lườm Thầy trân trân.

Thầy dỗ ngọt :

– Nương nương miễn chấp cho, câu chuyện tôi sắp thưa chẳng những người nghiêng tai rồi chắc lưỡi, chau mày; mà kẻ hở miệng cũng bầm gan tím ruột.

Bà mếu miệng cười gượng, nét hoa ủ dột gấp mấy lần khóc than, nói:

– Em xin nghe, điều chi chàng cứ dạy. Hễ là đạo vợ sao có quyền trách cứ chồng?

Chủ khách cùng nín thinh, căn phòng tĩnh mịch, như hai pho tượng gỗ trong một bảo tàng viện lạnh lẽo, âm u. Hồi lâu chàng phân tiếp:

– Vậy chúng ta đáng tội, bởi dám toan chống trả mạng trời. Khiến ra vàng phai đá nát, rụng cải rời kim, đành hồn ma quá dại với lời thề, song kiếp mới dưng vào cửa Bụt. Cầu ô phút bỗng hiệp ly, đường thế chỉ hườn dâu bể. Thấy chưa? Nễ bạn một vài tiếng gọi, đày mình hăm mấy năm thừa, lối về che khuất ngàn mây, ngày tới nhuộm mờ dặm khách.

Còn đâu nữa mà duyên, mà nợ, phận hồng nhan nước đục bụi trong; gặp lại chi lỡ lứa, lỡ đôi, thân khất sĩ áo dà đầu trọc.

Giả sử đừng ai kêu réo thì chơn thần tôi thong dong cõi thọ, ắt đã được tuần tự tiến hoá, lần giũ túc khiên. Mà rồi trên thềm vô tri vẫn sẵn sàng phò hộ vợ con, vẫn chờ đón đặng rước nhau lên vĩnh cửu. Thảng hoặc đầu thai lộn xuống, là tôi cũng đúng kỳ phát triển như trái mùi lại rụng, nên giáng sanh hoàn thiện xứng đáng hơn .

Chớ hiện giờ tôi vốn tên tội của thiên tào, tai phàm mắt thịt đội lốt giả danh, sống thì còn trà trộn theo đời ngặt chết kia mới thiệt đến cấm cố giam mình dưới a-tỳ địa ngục.

– Hứ!… Ai gây ra cớ sự? Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau.

Thầy buông xuội hai tay, bất bình tuyệt vọng. Theo tín ngưỡng Thầy, cuộc tái ngộ có tính cách gian phu dâm phụ; duy những hình phạt luân hồi mà Thầy đem doạ nạt chưa dễ chi cảm hoá tiết chế bà.

Bà khẳng khái đảm đương nói:

– Thà đắng cay trụy lạc cho nó ưng, miễn được cùng nhau chia sớt với nhau luôn, chàng đâu thiếp đó. Quý quá thay tấm lòng cao thượng hy sinh. Một đàng là tôn giáo vị tha, một đàng là ái tình chung thuỷ, quan niệm dẫu sai biệt, song tư cách cũng tương đồng.

Tuy nhiên, Thầy cương quyết nói:

– Tôi phải đi!

– Hồng Sơn anh! Chàng bỏ thiếp ư?

Chớ tôi lấy cớ chi mà ở? Đã không thể hồi tục và cũng không muốn vào phục vị tiền thân. Tôi nhỏ hơn cô Ngọc Lan năm sáu tuổi.

– Chẳng khứng làm chồng thiếp, hay chàng để thiếp nhận làm con?

– Đâu có ngược đời lắm vậy? Với bà thì tôi vẫn là chồng trong lý tưởng, còn với ngoài dư luận thì tôi chỉ là Thầy tu phá giới ăn bám nằm nhờ; chứa tôi, đố họ khỏi mỉa mai đàm tiếu, lại càng dơ dáng, dại hình. Bà nghĩ cho chính coi?

Thôi móng chơn nền tuyết, cánh hồng khó nổi đứng dai; ổ kiến gốc hoè hồn bướm mong chi bay ráng!

Từ đây cất bước thiền-na, mong pháp nhành dương nước tịnh cám tình thí chủ, luống công ngỏ ý tơ lòng….

– Tôi xin ra mình không như khách qua đường, chẳng đá động gì đến sự sản nhà này, mà bà nói tôi được trọn quyền thừa hưởng. Nhường cảnh phòng loan trướng huệ, xí phần chiếu đất màn trời.

– Đặng có hành xác, chàng nón sắn hài gai tủi cho mẹ con thiếp ấm áo no cơm bao đành dạ?

– Tôi vì kỷ luật của đạo.

– Thành nhẫn tâm buộc thiếp phải thân sơ, nghĩa đoạn; trái luân thường sao chàng?

– Chẳng qua bà còn chác việc thế gian. Người ơi! Bận nhau chi mà cầm cọng tiếc thương cho gây thêm nghiệp báo tuần hườn, xác trần khá cổi dây oan, kẻo lại cứ đi về trong nghiệt hải…. Trên khoảng luân hồi mà từ thiên cổ chúng ta là khách lữ, mỗi cuộc gặp gỡ kết giao ở một đời quá khứ cũng vô thường ngắn ngủi như một đêm quán trọ theo vệ đường. Rồi thì đôi ngả chia duyên, cách trở bằng không gian, thời gian, đảo lộn giữa tứ sanh, lục đạo. Kiếp nào cảnh nấy chớ chồng gì tôi? Vợ gì ai?

Ngọc Oanh phu nhơn ngồi choáng váng, tê mê, những lý luận kia đánh mạnh vào tâm hồn lẫn thể chất bà tựa những lằn roi điện của người tuần dưỡng quất lên con ác thú. Thừa cơ hội, Thầy Sơn Huệ liền chạy tuốt xuống lầu. Ra khỏi nhà, Thầy co giò sảy một hơi chẳng dám quay đầu ngó lại. Chiến sĩ bại trận vừa thoát khỏi địch quân, Thầy té sụm giữa mô đất dựa góc đồi, sức Thầy muốn hết, mà trông chừng xóm chòi tranh lúp xúp mờ xa. Thầy nhắm đi không thấu.

Đương lúc bần dùn ngẩn ngơ, Thầy ngó lại thấy phía trên đồi, từng dề cát bụi lướt tàng cây phăng xuống, cuồn cuộn như sóng bỏ vòi, rồi Thầy tiếp nghe tiếng vó ngựa nện gần, thêm gần, nhịp nhàng với lạc khua rổn rảng.

Lúynh quýnh, Thầy sợ chúng rượt theo, thì người tớ già đã xuống yên đón hầu Thầy, giọng nói hơ hải lặp bặp.

Bà ngặt mình hấp hối, duy này ông trở lại trong giờ chót đặng gởi chút việc nhà.

Một tia sáng nháng qua trí óc, Thầy chợt nhớ ra tên bộ hạ năm xưa. Thầy không còn tự chủ kêu:

– Chú Trung, chú cũng nhìn biết tôi ư?

– Vâng! Hoạ có lão nay tuổi tác mới đổi nhiều chứ ông thì dưới lớp nâu sòng vẫn tướng tá hình dung đâu khác! Còn trốn tránh đâu nữa, ông cứ về đi thôi.

– Tội nghiệp tôi lắm chú ơi!

– Nhưng bà tựa chỉ mành treo chuông, may kịp thấy ông về mà nuối được. Nếu ông trì hưỡn tức là cố ý để cho bà chết để phi tang diệt tích, ngỏ chôn luôn món nợ ân tình. Thủ đoạn ấy dù đến ngoài thiên hạ cũng không ai nỡ, Thầy lại há nỡ sao? Một chuyến đò còn nên nghĩa đó thay! Huống chi một kiếp vợ chồng?

Hiện thời bên đạo bên đời, vì mình có kẻ sắp chết oan, cái nhơn mạng kia sẽ ghi dấu mãi mãi trên lương tâm Thầy bằng chữ máu. Dưới chín suối mảnh u hồn bà rồi đây vật vờ, cô khổ, phải cảnh tỉnh đặng cùng Thầy nương theo Phật pháp mà cải tà quy chánh, lập công gỡ tội giùm hậu thân. Trước tôn giáo, trước luân thường đối với quả phụ phút lâm chung; xin Thầy kiêm cả bổn phận vừa là nhà sư vừa là bạn cũ, lăn mình vào chốn ba đào, miễn bà với thanh bè tế độ.

Thầy thầm nguyện hễ được thì dìu nhau đề huề sang bỉ ngạn, bằng không thì cũng liều cho trích giáng chẳng ham chi chứng quả Niết-bàn.

Thầy nói xuôi:

– Ừ! Ta về coi!

Chú Trung bèn lên ngựa quày cương, đèo Thầy ngồi vững sau lưng, rồi thúc gót ra roi cho phi nước đại….

Hai Thầy trò tất tả chạy lên lầu, hết thang thì gặp vị lương y trong phòng bịnh bước ra, ngài lương y đứng lại bàn bạc:

– Chú Trung, mạch bà hoả kiệt khí thoát, cơn mê cơn tỉnh, tôi xem gượng chẳng bao lâu. Vậy chú khá báo họ hàng tề tựu đặng có sớm lo dự bị sắm sanh, kẻo rồi bất cập.

Đoạn day chào Thầy, ngài nói phân bua :

– Cứu căn chớ hòng cứu số, ông trời kêu ai nấy dạ biết sao? Khoa học cam thất bại trước tử thần. Âu là nhờ bậc cao Tăng hoan hỷ trợ niệm tiếp vong linh.

Thầy cúi đầu chắp tay niệm:

– A Di Đà Phật!

Vị lương y đi khuất, họ liền hé cửa lách mình vô.

Phu nhơn nằm đấy im lìm, má xám môi thâm hơi thở mõi mòn, cũng thể cái trớn thừa ở bộ máy rề rề chưa tắt hẳn.

Thầy rón rén xích tới cạnh giường. Động giấc bà chép miệng rên:

– Hồng Sơn anh!

Cả một dĩ vãng phát lộ theo tiếng gọi, nghe như một câu chơn ngôn thần chú bắt Thầy phải xưng tên thọ tội, cổi lốt hiện nguyên hình, Thầy quỳ xuống chịu phép.

– Tôi đây ! Ngọc Oanh !

Thôi rồi công tu luyện mấy năm nay!

*   *   *   *   *   *   *   *

Bà từ từ mở mắt nhìn Thầy, nỗi mừng, nỗi tủi ngổn ngang theo dòng lệ, cất giọng run run:

– Là chàng hay bóng mơ? Trông chờ trải mấy thu sương, sum họp không đầy khoảnh khắc, nhận tưởng chàng lai sinh, những thẹn thân tái tiếu; nào có ngờ ngày hai ta hội ngộ, lại là em về anh ở, trời đã mọc nên trăng cần lặn, nhường cho nhau để một khuất một còn, phận em đành mà tình em quả ức oa. Ôi! Nếu đời ta rồi nữa vẫn đầu thai, vậy phỏng em có thể vay thêm mươi tuổi mà sống với chồng con, cho dầu đền trả bằng muôn kiếp ngựa trâu em đâu dám quản! Hồi nào chàng mất em đứng goá, rày tới phiên em mất… thì chàng chỉ là người ngoài thế cuộc; mặt tuy giáp mặt nhưng lòng trót chia lòng, đâu còn nước mắt khóc niềm xưa….

Nữa như than phiền nữa như tríu mến, bà sẻ nghiêng qua đưa hai tay bá vai Thầy nói :

– Hồng Sơn anh! Chàng nhớ hay quên?

Thầy vỗ về thú thật :

– Em ôi! Anh nhớ hết, nhưng muộn lắm rồi. Tìm được ai chính thị đổi mạng mình, thế mà vội gì em nòng nả khẩn cầu, sợ rằng lỡ dịp trễ duyên, bèo mây thất lạc! Té ra:

Giữ hẹn đứng chong đèn khổ hạnh,

Giết nhau nhè thổi gió từ bi,

Ba sinh tơ tóc đây là dứt,

Bưng chén đoàn viên uống biệt ly.

Bà khóc rống….

Thầy bệu bạo giải khuyên:

– Hãy kể như từ xưa chúng ta trót vô tâm đứng diễn một vở tuồng cùng lãnh vai đào thương kép khó, tiết hạnh hiếu trung, nỗi tan hợp lúc buồn vui…, lửa đỏ gan vàng, bao nung nấu cho tới lúc nầy là phải vãn, thì hẳn nhân quả phải khấu trừ, cam lai khổ tận, cũng cang thường đạo nghĩa vẹn đôi đàng.

– Chuyện trăm năm trước nhắc làm chi, cõi trần vốn cõi giam thân, giờ chết mới giờ phóng xả.

– Mừng em sắp linh hồn thanh thoả, tiêu diêu nước nhược non bồng; ngại anh còn xác tục buộc ràng lận đận nợ đời cảnh mộng.

– Bởi vậy mà em không nỡ, thà kêu nhau chớ chẳng nỡ bỏ nhau ở lại, đây rồi cửa nhà con rể…, một ai xoay lưng ngoảnh mặt miễn cưởng sống thừa; một mình ai chơn trời góc bể ẩn tích mai danh, trong khi em cách ba tấc đất làm con ma không chồng, cỏ loáng mồ hoang xương tàn cốt rụi!

Thầy đuối lý thở ra! Tôn giáo bị lung lay trước ái tình! Thời gian dường nhường bước giữa bầu không khí lặng lẽ, trang nghiêm.

Giây lâu bà lại tiếp:

– Anh dung thứ cho! Sở dĩ em còn nuối sức lấy hơi là để lạy giã từ nhau và đặng mang theo xuống tuyền đài một lời thôi…. Một lời ân xá thốt ở miệng anh làm hương hoa cho hồn em tẫm ướp, rồi em nhắm mắt cũng ngậm cười.

– Em cứ yên tâm! Chẳng những anh không quyền gì quở trách nhau, mà trái lại anh còn có phận sự dắt dẫn em vào đường chánh tín. Xin em khá hồi đầu, hướng thiện quy ngưỡng nơi đức Thế Tôn, vì chỉ có đạo pháp Ngài thanh tịnh vô vi, mới cứu vớt chúng sanh khỏi vòng mê hoặc. Mỗi niệm “A-di-đà Phật” xua đuổi bao dục vọng! Sáng thay hồng danh Phật, cái khẩu hiệu cho lúc lâm chung khủng khiếp, ma chắn lối quỷ đưa đường, con người đương cơn nguy khốn trong hắc ám gọi mở cửa từ bi “Nam mô A-di-đà Phật”.

Liền như tiếng dội bà chấp tay ngang ngực nhái theo “Nam mô A-di-đà Phật ”

Môi bà nở nụ cười hân hoan, má đào hây hây sóng thu lóng lánh, trên vẻ xinh tươi phớt làn son e lệ, bà hồi dương phục sắc, đẹp như vị tân giai nhân! Cô dâu của Phật sắp sửa về nhà chồng, nhưng thay vì trang vật sính nghi; món quà chú rể trao rướt nàng chỉ bằng 18 hạt Bồ-đề u nần thô kệch.

Bà thành kính đỡ lấy xâu chuỗi lần niệm tới hạt chót bèn trật thị đi xuôi….

Ngọc Oanh phu nhơn đã hoá ra người thiên cổ. Nhơn cái thác trong sạch trọn lời thề, bà xuất gia mà cũng là xuất giá. Căn phòng vụt chớp nhoáng hào quang…. Sư Sơn Huệ có cảm giác bà vừa liễu đạo.

Vuốt qua mắt bạn, Thầy khẽ đặt lên trán bà một cái hôn tinh khiết nồng nàn….

Không đành trông tấn thảm kịch nhủn nhẳn dằn dai và cũng e can phạm đến danh tiết bà. Chú Trung nắm kéo vạt áo tràng hối Thầy mau lui gót.

Thầy rứt ra chẳng khác chiếc thuyền rời bến, thôi từ đây tang bồng mãn kiếp! Nghìn trùng sóng gió khẳm sầu thương.

*   *   *   *   *   *   *   *   *   *

Lễ tống chung Ngọc Oanh phu nhơn cử hành trưa mùng chín hôm sau. Theo di chúc bà, đám tang rất đơn sơ; không trống kèn, không phúng điếu. Cô Ngọc Lan mặc đại tang đi trước phò giá triệu, cạnh linh xa chồng cô nghiêng dù che nắng cho cậu con trai, quyền đích tôn thừa tự, giày rơm mũ bạc ngồi dựa quan tài.

Chừng mười thân quyến nối đuôi nhau, rốt hết là chú Trung tay bưng tay rắc giấy tiền vàng bạc. Tới huyệt đạo tỳ hạ gọng, lần lượt trên nắp hòm chưa lắp đất, mỗi người đều bỏ xuống một cành hoa, một nhúm cát gọi cáo biệt đưa đường….

Xong rồi họ lục tục ra về, bóng chiều ủ rủ, giọng côn trùng rền rỉ thê lương, âm khí như ung trùng nghĩa địa. Có ai để ý đến một Thầy sãi bị mo, gậy trúc; đứng nhìn trộm từ đầu mùa chí cuối… mãi tận đàng xa.

Đêm càng khuya! Hiu hiu gió thổi quanh mồ những gốc nhang đèn còn ngún từng chỗ bốc cháy lên, tàn bay lập loè rõ giống ma trơi lửa đóm….

Có ai vẳng nghe tiếng ở đâu nỉ non thê thảm…, phải chăng con chim nhạn lạc bầy kêu sương: “Tôi đây! Ngọc Oanh!”

Sen trắng

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here