Tóm tắt
1. Cố ý nói dối | 2. Nhiếc mắng thành phần |
3. Nói để ly gián | 4. Ngủ chung một nhà |
5. Ngủ quá ba đêm | 6. Đọc tụng ồn náo |
7. Nói tội lỗi nặng | 8. Nói thật đắc đạo |
9. Quá năm sáu lời | 10. Đào cuốc đất đai |
11. Chặt phá cây sống | 12. Xúc não lời lạ |
13. Nhiếc mắng tri sự | 14. Trải đồ chỗ trống |
15. Trải đồ trong phòng | 16. Cưỡng hiếm chỗ nằm |
17. Lôi ra khỏi phòng | 18. Nằm giường sút chân |
19. Dùng nước có trùng | 20. Lợp nhà quá hạn |
21. Ăn quá một lần | 22. Ăn thành biệt chúng |
23. Nhận ăn quá phần | 24. Ăn lúc phi thời |
25. Ăn đồ cách đêm | 26. Ăn đồ không mời |
27. Đi không dặn lại | 28. Nhà ăn ngồi dai |
29. Nhà ăn ngồi khuất | 30. Ngồi chung chỗ trống |
31. Đuổi người đi đi | 32. Quá hạn thọ thuốc |
33. Đi xem quân trận | 34. Trong quân quá hạn |
35. Xem quân giao chiến | 36. Uống các thứ rượu |
37. Đùa giỡn trong nước | 38. Thọc lét người khác |
39. Không nghe can gián | 40. Nhát cho người sợ |
41. Tắm dưới nửa tháng | 42. Đốt lửa đất trống |
43. Giấu chơi vật dụng | 44. Dùng không hỏi chủ |
45. Dùng y mới nguyên | 46. Cố giết súc sinh |
47. Uống nước có trùng | 48. Làm buồn người khác |
49. Che giấu tội nặng | 50. Khơi lại tranh cãi |
51. Hẹn đi với giặc | 52. Chống can nói càn |
53. Theo người nói bậy | 54. Dung kẻ bị đuổi |
55. Chống cự khuyên học | 56. Hủy báng giới luật |
57. Sợ nên nói trước | 58. Yết ma rồi hối |
59. Không nói gửi dục | 60. Gửi dục rồi hối |
61. Nghe lén mách lẻo | 62. Đánh Tỳ kheo ni |
63. Tát Tỳ kheo ni | 64. Vu khống tội nặng |
65. Vào cửa cung vua | 66. Cầm lấy báu vật |
67. Vào xóm phi thời | 68. Làm giường quá hạn |
69. Dồn bông ba chỗ | 70. Ăn các thứ tỏi |
71. Cạo lông ba chỗ | 72. Tẩy tịnh quá hạn |
73. Chế ra nam căn | 74. Cùng vỗ với nhau |
75. Bưng nước hầu quạt | 76. Đi xin lúa sống |
77. Đại tiểu cỏ tươi | 78. Đổ bậy đồ dơ |
79. Xem nghe múa hát | 80. Vào xóm đứng khuất |
81. Cùng vào chỗ khuất | 82. Kề tai nói nhỏ |
83. Không nói mà đi | 84. Không mời cứ ngồi |
85. Nằm nhà cư sĩ | 86. Cùng vào chỗ tối |
87. Không nghe cho kỹ | 88. Việc nhỏ thề bồi |
89. Đấm ngực khóc la | 90. Không bệnh chung giường |
91. Chung mền chung nệm | 92. Hỏi để quấy rối |
93. Không thăm nom bệnh | 94. An cư đuổi người |
95. Ba mùa du hành | 96. Giải hạ ở lì |
97. Đi chỗ biên giới | 98. Đi chỗ nguy hiểm |
99. Thân cận cư sĩ | 100. Đi xem hoàng cung |
101. Lộ hình tắm sông | 102. Khăn tắm quá hạn |
103. May y quá lâu | 104. Năm ngày không đoái |
105. Ngăn cúng tăng y | 106. Mặc y người khác |
107. Cho y ngoại đạo | 108. Ngăn tăng chia vải |
109. Xúi khoan xuất y | 110. Xúi đừng xuất y |
111. Không diệt tranh cãi | 112. Cho ngoại đạo ăn |
113. Để người sai sử | 114. Xe chỉ đánh sợi |
115. Không hỏi nằm, ngồi | 116. Không từ mà đi |
117. Tà mạng chú thuật | 118. Dạy người chú thuật |
119. Độ người có thai | 120. Độ người con bú |
121. Độ chưa đủ tuổi | 122. Không dạy học giới |
123. Không học sáu pháp | 124. Độ không hỏi tăng |
125. Độ gái có chồng | 126. Đủ năm thiếu phép |
127. Độ dâm, tặc nữ | 128. Độ không nuôi dạy |
129. Không hề y chỉ | 130. Không phép, làm thầy |
131. Thiếu hạ làm thầy | 132. Đủ, tăng không cho |
133. Hủy báng không cho | 134. Độ kẻ có chủ |
135. Độ kẻ đáng yêu | 136. Gạt thức xoa học |
137. Gạt thức xoa y | 138. Dưới mười hai tháng |
139. Để cách một đêm | 140. Không thọ giáo thọ |
141. Không cầu giáo thọ | 142. Không cầu tự tứ |
143. An cư không tăng | 144. Không thưa mà vào |
145. Mắng tỳ kheo tăng | 146. Trách mắng ni chúng |
147. Mổ nhọt không thưa | 148. Ăn xong ăn nữa |
149. Ganh tị với thầy | 150. Hương liệu xoa thân |
151. Dầu mè xao thân | 152. Bảo đồng giới xoa |
153. Bảo thức xoa xoa | 154. Sa di ni xoa |
155. bảo phụ nữ xoa | 156. Mặc quần lót độn |
157. Sắm đồ trang điểm | 158. Mang dày cầm dù |
159. Không bệnh ngồi xe | 160. Không mặc áo lót |
161. Tối đến nhà người | 162. Tối mở cổng chùa |
163. Trời lặn để cổng | 164. Không có an cư |
165. Độ người rỉ chảy | 166. Độ người hai hình |
167. Độ người nhập một | 168. Độ người nợ, bệnh |
169. Học nghề coi bói | 170. Dạy nghề coi bói |
171. Đuổi mà không đi | 172. Hỏi không xin trước |
173. Đi đứng xúc não] | 174. Xây tháp chùa tăng |
175. Khinh tân Tỳ kheo | 176. Đi mà lắc mình |
177. Sắm đồ trang sức | 178. Bảo ngoại đạo xoa |
- CỐ Ý NÓI DỐI
Phật ở Ca tỳ la vệ, trong vườn Ni câu luật (Nigrodha) Tỳ kheo Trượng lực phạm. Ông thuộc dòng họ Thích ca, có tài biện bác thường tranh luận với ngoại đạo. Mỗi khi người đối thoại chứng minh ông nói sai thì ông quật lại rằng mình chưa từng nói câu ấy. Mọi người chê bai Tỳ kheo gì mà lại chuyên nói dối. Phật quở trách đương sự và chế giới.
- NHIẾC MẮNG THÀNH PHẦN
Phật ở Xá vệ chế giới. Lục quần Tỳ kheo phạm. “Thành phần” là như lôi nghề nghiệp, cố tật, thành phần xã hội của người ta ra mà nhiếc móc, như nói “đồ con nhà thợ săn”, “hàng thịt” vân vân.
Kết giới xong, Phật kể một câu chuyện ngụ ngô. Vào một thời xa xưa, khi loài vật cũng biết nói, ở xứ này có người bà la môn nuôi một con trâu đực chỉ có một sừng nhưng sức mạnh phi thường. Bà la môn cho trâu ăn, săn sóc trâu rất chu đáo. Một ngày kia trong nước có hội đấu trâu, trâu ai kéo nặng đi nhanh nhất sẽ thắng cuộc một ngàn lượng vàng. Con trâu nói với chủ: “Xin chủ hãy đem tôi ra đấu, tôi sẽ làm cho chủ được cuộc”. Bà la môn nghe lời trâu, bỏ tiền ra dự cuộc.
Đến ngày dự thi, lúc đem trâu ra trình làng, ông ta giới thiệu: “Thưa bà con cô bác, đây thằng lõi một sừng của tôi đây, xin bà con hãy xem sức mạnh của nó”.
Trâu nghe nhắc đến dị tật “một sừng” của mình, lấy làm hổ thẹn buồn sầu, kéo xe không nổi. Người Bà la môn bị thua cuộc tiu nghỉu dắt trâu về. Về đến nhà, ông bảo trâu: “Bình thường mày mạnh lắm, sao hôm nay bỗng dưng mày trở chứgn kéo xe không nổi, làm ta mất toi một ngàn cây?”.
Trâu nói: “Ai bảo chủ ở trước công chúng mà gọi tôi là thằng lõi một sừng, nghe thế tôi hổ thẹn buồn sầu chẳng còn chút sinh lực nào nữa. Nếu chủ muốn thắng cuộc, hãy đem đặt tiền cuộc gấp đôi, rồi dùng lời êm tai vỗ về trước khi đấu, tôi sẽ đem về cho chủ hai ngàn lượng cho coi”.
Người Bà la môn nghe vậy, hết lời xin lỗi trâu, rồi đem trâu ra đấu nữa. Lần này trước khi đi ông dụ ngọt: “Con cưng của ba ơi, hãy theo ba ra trường đấu, lần này con rán kéo xe cho thắng cuộc, rồi ba sẽ bồi dưỡng cho con nhiều rượu thịt và cho con đi xem cải lưởng hát bóng…”.
Trâu nghe bùi tai, hăng hái ra đi. Đến nơi, bà la môn lại vỗ về trâu mà giới thiệu: “Thưa bà con cô bác, đây là anh chàng Hoàng Ngưu báu vật số một của tôi. Hoàng Ngưu đẹp trai, thông minh, lại khỏe mạnh, dẻo dai vô cùng…”. Rồi ông nói riêng với trâu: “Nào Hoàng Ngưu ra đi con, hãy làm cho mọi người trông thấy tận mắt, thưởng thức cái sức mạnh vô địch của con”. Con trâu hùng dũng bước ra kéo dễ như bỡn một chiếc xe nặng nhất trong trườngđấu, chưa con nào kéo nổi. Mọi người vỗ tay hoan nghênh, và người bà la môn thắng cuộc hai ngàn vàng.
Nhân đấy Phật dạy: “Con vật mà còn ưa nghe lời dịu ngọt như thế, huống chi loài người”.
Nguồn:budsas.org